Thứ năm, 18-9-25 17:56:39
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Báo Cà Mau

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Chứng tích tội ác của Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng (nay thuộc xã Tân Hải, huyện Phú Tân) có thể được coi là một di sản của lịch sử, mà ở đó những mất mát, đau thương của quê hương Cà Mau trong cuộc kháng chiến chống Mỹ được cô đọng, điển hình một cách đầy ám ảnh. Phía khác, nó càng làm cho chiến thắng của quê hương, đất nước trước bè lũ đế quốc xâm lược và tay sai càng trở nên toả rạng vinh quang.

Chúng tôi, thế hệ những người con Cà Mau không biết đến chiến tranh, nhưng cái tên "Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng" đã được người đi trước nhắc nhớ lại như một điều không thể lãng quên thuộc lịch sử bi hùng của quê hương mình. Hơn 10 năm trước, lần đầu tiên tôi tìm về địa điểm này, mọi dấu tích của quá khứ chỉ còn lại mờ nhạt. Tôi nhớ Hoạ sĩ Nguyễn Hoàng Măng, khi ấy là Phó trưởng phòng Văn hoá - Thông tin huyện Phú Tân, tâm tình rằng: “Có lẽ vì tội ác của giặc ở đây dã man quá, ghê rợn quá, nên khi giải phóng, phía cách mạng muốn xoá sạch hết những ký ức đau thương, để không còn bất cứ dấu tích nào gợi nên những ngày tháng đen tối, kinh hoàng ấy”. Và nữa, khi đó, các công việc phục dựng, trùng tu liên quan đến di tích lịch sử này còn chưa được triển khai.

Khi tìm đến những nhân chứng sống, những tư liệu, thông tin liên quan đến tội ác của giặc ở Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng, cảm giác ập đến là sự ghê rợn đến lạnh người. Tôi không thể tưởng tượng được cái móng cầu gãy đổ nằm trồi lên phía mặt vuông đầy sậy, lức kia đã từng là chiếc cầu “vĩnh biệt” của biết bao sinh mạng người dân, chiến sĩ cách mạng mà chân bước qua là như đi ngang cầu Nại Hà âm phủ. Theo ông Sáu Sơn, khi người dân và cán bộ, chiến sĩ cách mạng của ta bị giặc thủ tiêu, chúng nói bằng tiếng lóng là “đi công tác ở Ðầm Cùng”.

Dòng người thành kính viếng bia chứng tích tội ác của Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng, nơi 1.675 sinh mạng của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cách mạng của ta đã bị giặc thù tàn sát dã man.

Dòng người thành kính viếng bia chứng tích tội ác của Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng, nơi 1.675 sinh mạng của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cách mạng của ta đã bị giặc thù tàn sát dã man.

Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh Cà Mau (có lẽ không đầy đủ - mà làm sao đầy đủ cho được, như bất cứ số liệu nào trong bất cứ cuộc chiến tàn khốc, đẫm máu nào khác - PV), Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng tồn tại từ năm 1957 đến năm 1973, đã sát hại 1.675 đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cách mạng của ta. Sinh mạng, xương máu của người Cà Mau đã chất thành núi căm hờn, đau thương ngút trời trong khoảnh đất khoảng 30 ha, nơi được gọi là “địa ngục trần gian”, “lò sát sinh” với những tội ác không còn tính người mà giặc gây ra.

Những tội ác man rợ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng khiến bất cứ ai cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Không chỉ tàn sát, giết người mang tính chất huỷ diệt từ trẻ em, phụ nữ có thai, người già, đến bất cứ ai hiềm nghi, bằng đủ mọi hình thức tàn độc nhất có thể, bè lũ Hải Yến - Bình Hưng còn coi việc “người ăn thịt người” trở thành một trò tiêu khiển thoả mãn thú tính, một cách để lập công lãnh thưởng, tranh cạnh để thể hiện “số má” với nhau.

Mức độ tội ác của giặc tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng đã vượt khỏi mọi quy chuẩn của xã hội loài người văn minh, khó có ngôn từ nào để lột tả hết sự dã man và tàn độc. Ðó không phải là cách ứng xử, hành vi của con người với con người, mà là sự bạo ngược, hung hiểm của một bầy quỷ dữ, một đám sói lang khát máu để chà đạp, triệt tiêu, xoá bỏ những giá trị của nhân loại tiến bộ.

Nguyễn Lạc Hoá là kẻ cầm đầu trong tập đoàn tội ác Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng. Ông Sáu Sơn đã có một đánh giá rất thấu đáo rằng: “Nguyễn Lạc Hoá không phải là kẻ đội lốt tôn giáo, mà là một kẻ thực hiện tội ác với thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo một cách triệt để, tinh vi”. Có thể chia tách 2 giai đoạn gây nợ máu của Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng để nhìn rõ điều ấy.

Di tích quốc gia địa điểm chứng tích tội ác của Mỹ Ngụy tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng hiện nay đã được trùng tu, phục dựng với nhiều hạng mục công trình, để lịch sử của quê hương, đất nước mãi mãi được trao truyền.

Di tích quốc gia địa điểm chứng tích tội ác của Mỹ Ngụy tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng hiện nay đã được trùng tu, phục dựng với nhiều hạng mục công trình, để lịch sử của quê hương, đất nước mãi mãi được trao truyền.

Giai đoạn đầu tiên là khi hình thành và sự hậu thuẫn của Mỹ - Diệm, Nguyễn Lạc Hoá đã dùng chiêu bài tôn giáo để xây dựng Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng với mục tiêu chống phá cách mạng và cái gọi là “biên giới của Mỹ kéo dài đến vĩ tuyến 17 (lời của Ngô Ðình Diệm năm 1957 - PV)”. Bằng rất nhiều thủ đoạn, Nguyễn Lạc Hoá từng bước biến Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng thành “lò sát sinh”. Với mối quan hệ đặc biệt và cơ chế hỗ trợ trực tiếp, tức thì của Diệm mà không thông qua một cấp trung gian nào khác (Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng là biệt khu duy nhất hưởng chế độ đặc biệt trực thuộc Biệt bộ tham mưu Tổng thống phủ do Diệm chỉ đạo - PV), Hoá nhanh chóng tạo dựng được cái mác “lãnh đạo tinh thần” với uy quyền “hô mưa, gọi gió”. Các tài liệu của chính quyền Diệm còn lưu trữ cho thấy, Hoá xin gì đều được Diệm phê duyệt ngay lập tức, từ các loại nhu yếu phẩm, quân trang, quân dụng, vũ khí, tàu chiến, lực lượng... Ðáng chú ý là bè lũ tay sai đắc lực của Hoá, trong đó có nhóm quân phiến loạn từ tàn quân Tưởng (Tưởng Giới Thạch), được gọi là “tàu phù”, ra sức khủng bố, giết chóc đồng bào và cách mạng ta. Ðó là chưa kể nhóm quân người dân tộc thiểu số mà Hoá thu dụng từ khắp nơi để phục vụ cho tội ác.

Mưu đồ hiểm độc của Hoá là cùng lúc thực thi kế sách “bàn tay nhung” và “bàn tay sắt” để gầy dựng thanh thế cho bản thân và biệt khu trá hình Hải Yến - Bình Hưng. Hoá lăn lộn địa bàn, mị dân bằng đủ thứ giáo lý cao đẹp và quà cáp để lôi kéo người theo đạo. Người nào theo, Hoá sẽ chiêu dụ bằng vật chất, tiền bạc, không bị bắt bớ, giết chóc. Hoá đứng ra xin bảo lãnh những người có “cảm tình”, quan hệ dính líu theo đạo, hoặc có dấu hiệu dao động dễ bị mua chuộc. Người không theo, Hoá không ra mặt nhưng chỉ đạo đuổi cùng, giết tận, sống hay chết đều không yên. Vậy là lũ tay sai khát máu của Hoá có dịp thể hiện tính cuồng sát điên loạn nhằm thoả cơn khát máu. Còn Hoá, đóng vai một người phụng đạo “nằm ngoài thế sự”, chuyên tâm làm công việc thiện nguyện, che đậy đến cùng bản chất độc ác ghê rợn của mình.

Quân số của Hải Yến - Bình Hưng cao điểm có lúc đến 1.800 quân, với nhiều thứ quân từ tinh nhuệ đến ô hợp tay sai, có cả cố vấn Mỹ và vũ khí, trang bị chiến tranh tối tân, đã gây ra những tổn thất to lớn cho cách mạng và đồng bào ta. Lấy tôn giáo để mị dân, dùng sắc tộc để thoải mái giết chóc, không ở đâu mà không khí của diệt chủng, tội ác chống lại loài người biểu hiện đến ngột ngạt và ám ảnh như tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng.

Giai đoạn thứ hai, khi chính quyền Diệm sụp đổ (tháng 11/1963), tưởng chừng Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng và Nguyễn Lạc Hoá sẽ không còn chỗ dựa để hoành hành, rơi vào cảnh thất thế. Nhưng không, Mỹ và chính quyền chế độ cũ tiếp nối, không ngừng tiếp viện cho Hoá để biệt khu này tiếp tục gây nên tội ác trời không dung, đất không tha.

Cho đến tàn cục, năm 1973, nhận ra thất bại không thể tránh khỏi của Mỹ - Ngụy và trốn tránh tội ác gây ra, Hoá làm đơn xin xuất ngoại trị bệnh, còn chính quyền cũ cho phép với lý do “tham dự hội nghị tôn giáo”. Hoá rời Hải Yến - Bình Hưng, bỏ lại phía sau mình nợ máu, oán thù chồng chất. Lịch sử và lương tri của nhân loại tiến bộ sẽ không thể quên Nguyễn Lạc Hoá, hiện thân của quỷ dữ với tội ác chống lại loài người.

Nhưng xét đến cùng, Hoá chỉ là một trong nhiều, rất nhiều những “con bài’ trong cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai dựng lên, gây ra bao tội ác tày trời trên đất nước Việt Nam này. Cứ thế, tội ác của giặc thù nhân lên, và mất mát, đau thương của quê hương Cà Mau và cả dân tộc Việt Nam làm sao kể xiết, làm sao thống kê cho đầy đủ.

Mãi cho đến mùa Xuân đại thắng năm 1975, theo lời kể của ông Lưu Tấn Tài (Ba Hiền, nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Cái Nước thời điểm ấy, hiện sinh sống tại ấp Cái Giếng, xã Tân Hưng, huyện Cái Nước) thì: “Sau khi tiếp quản thị xã Cà Mau, ngày 2/5, nhận tin bọn giặc ở Bình Hưng không chịu đầu hàng, tôi và Tiểu đoàn 1 địa phương quân Cái Nước theo đường thuỷ tiến về Bình Hưng. Khi ta đến, bọn chúng buông súng đầu hàng. Chúng tôi tiếp quản, đóng quân ngay tại đồn Bình Hưng 1 tuần rồi rút” (từ năm 1973, Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng sau sự ra đi của Hoá đã bị xoá sổ, chỉ còn là một đồn trực thuộc Chi khu Hải Yến đóng ở Cái Ðôi, trung tâm xã Phú Tân, huyện Phú Tân hiện nay - PV). Như vậy, Bình Hưng là nơi mà giặc ngoan cố cầm cự đến giờ phút sau chót và điểm tiếng chuông cáo chung cho Mỹ - Nguỵ tại Cà Mau.


Khi chúng tôi viết những dòng này, Di tích Ðịa điểm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng đã được trùng tu, phục dựng với nhiều hạng mục công trình tương xứng với tầm vóc của di tích lịch sử - văn hoá quốc gia. Ðó là sự quan tâm rất kịp thời, rất đúng đắn, là cách để hậu thế hôm nay tri ân, gìn giữ, phát huy những công đức cao dày, những hy sinh lớn lao của tiền nhân, và để lịch sử oai hùng, vẻ vang của quê hương, đất nước còn mãi mãi được trao truyền.

Nhưng, ở chừng mực nào đó, việc gìn giữ, phát huy giá trị các di tích không chỉ và không thể chỉ là phần “xác”. Việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá cần có những cơ chế, chính sách, giải pháp và nguồn lực; cùng với đó là cả sự chung lòng, chung sức của toàn xã hội để phần “hồn” của di sản ấy tiếp tục hiện diện trong đời sống hôm nay, đồng hành với tương lai như một phần máu thịt của văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; của sức vóc một đất nước Việt Nam đang tiến bước vào kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc.

Ðó cũng là những băn khoăn khi chúng tôi nghĩ về Di tích lịch sử Ðịa điểm chứng tích tội ác của Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng và hơn 50 di tích lịch sử - văn hoá khác đã được xếp hạng ở Cà Mau. Nhưng nói gì thì nói, lịch sử là điều không thể lãng quên, bởi nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Ðồng thì: “Nếu chúng ta không sống với quá khứ của mình, thì khó có được một hiện tại tốt đẹp. Mà nếu hiện tại không tốt đẹp, thì không biết tương lai sẽ ra sao?”.


 

Ghi chép của Phạm Hải Nguyên

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.