Thứ sáu, 19-9-25 02:15:09
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chặng đường mùa xuân 1975: Bài 2: Tìm đơn vị “săn tàu”

Báo Cà Mau Từ Xẽo Trê, tôi chèo vô Biện Tràng và từ Biện Tràng chèo lên một chặng xa lắc, cả chục cây số. Tôi tìm gặp anh em cán bộ, chiến sĩ đội “săn tàu” của tỉnh đang ngày đêm nằm bên công sự trên bờ sông Ðốc, đoạn vàm Cỏ Xước. Ra đời chưa đầy một năm, đơn vị trẻ và những người chiến sĩ trẻ có mặt ở đây đã nhận chìm 16 chiếc tàu sắt giặc, diệt hàng trăm tên, làm chủ hoàn toàn tuyến sông chiến lược này.

Từ Xẽo Trê, tôi chèo vô Biện Tràng và từ Biện Tràng chèo lên một chặng xa lắc, cả chục cây số. Tôi tìm gặp anh em cán bộ, chiến sĩ đội “săn tàu” của tỉnh đang ngày đêm nằm bên công sự trên bờ sông Ðốc, đoạn vàm Cỏ Xước. Ra đời chưa đầy một năm, đơn vị trẻ và những người chiến sĩ trẻ có mặt ở đây đã nhận chìm 16 chiếc tàu sắt giặc, diệt hàng trăm tên, làm chủ hoàn toàn tuyến sông chiến lược này.

Ðêm xuống, tôi nghỉ tại nhà cô Tư Biển trên bờ sông vàm Cỏ Xước. Tôi biết rõ nguồn gốc bà con quê hương xứ xở Bến Tre. Cô Tư là chị ruột của cô Út Cẩm công tác tại Nhà in Trần Ngọc Hy tỉnh Cà Mau. Nghe tôi nhìn, cô Tư vui lắm, xem tôi như cháu ruột của cô. Ðêm này, bầu trời đen kịn. Cô Tư mở chiếc radio nghe báo bão Sóc Trăng, Cà Mau. Dự báo thời tiết như vậy, đến khoảng 5 năm sau, tức vào năm 1980 mới biết đó là áp thấp nhiệt đới. Gió thổi qua từng ngọn cây ào ào, gió lọt vào cửa sổ nhà, lạnh buốt. Mặt sông Ðốc sóng nổi lên cuồn cuộn…

Đoàn cán bộ chờ chuyến vượt sông - con sông rất nhiều đồn bót và tàu chiến giặc tuần tra nghiêm ngặt.   Ảnh: VÕ AN KHÁNH

Sáng lại, trời quang mây, bình thường. Tôi từ giã cô Tư, hỏi đường để trở ra hướng Bàu Phong. Ði trên mảnh đất này mà nhớ chiến công của Tiểu đoàn U Minh 2 vào năm 1970, thời kỳ giặc “bình định” đánh phá ác liệt. Sau gần 5 tháng quân giặc tái chiếm chi khu Rạch Ráng và trước khi xuất hiện bộ đội Ð10 - Trung đoàn 10 trên địa bàn này, Tiểu đoàn U Minh 2 vượt sông Ðốc về xã Trần Hợi và trở qua xã Lợi An, chỉ trong vòng 4 ngày đã diễn ra 3 trận đánh vang dội.

Ðó là trận công đồn Rạch Ruộng, đả viện quân bảo an chi khu Rạch Ráng trên cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập ngày 26/2/1970, trận đánh địch đổ quân xuống ngay đội hình ở ấp 10 - giáp So Le, Kiểu Mẫu, bắn rơi 3 chiếc trực thăng ngày 27/2/1970 và trận thứ ba vào đêm ngày 1/3/1970, Tiểu đoàn U Minh 2 tập kích đồn Xẽo Dá do Ðại đội bảo an 518 mới lấn chiếm, diệt và làm bị thương 70 tên, trong đó có tên Vinh đồn trưởng và tên Bi trưởng đoàn “bình định”. Bộ đội ta, có 1 chiến sĩ bị thương chui vô cây rơm cách đồn khoảng 100 m ẩn tránh, được người dân Cỏ Xước hết lòng giúp đỡ. Bà Hai Hùng (má vợ đồng chí Ba Cước) và bà Tư Hợi phát hiện, khiêng người chiến sĩ bị thương bỏ vô thùng phuy chở đến bà Ba Nguyệt cách đó khoảng 10 công đất, chích mũi thuốc khoẻ rồi chở đưa vô vùng giải phóng an toàn. Bà Ba Nguyệt, vợ ông Vũ Phát, cán bộ cách mạng, thời chiến bà lén chế độ cũ làm bảo sanh, y tế tư ở vùng này.

Tôi chống xuồng băng hướng Cái Bát, Bàu Phong, đẩy cây chèo nặng, mặt trời lên cao nên tìm nhà xin nước uống. Tôi ghé lên gian nhà lá giữa đồng, chỉ một mình bà lão ở nhà trên, xóm trống trải, cây lá lưa thưa. Giọng bà mừng rỡ:

- Vô ngồi nghỉ, uống nước một chút rồi hễ đi cháu!

Ðoạn, bà lại bộ ván, lấy bình ly. Rồi bà lấy chuối chín sắp trong dĩa, gọi tôi: “Ăn chuối, uống nước đi cháu. Chèn ơi, còn đi công tác được qua mừng quá”. Bà chỉ vào bàn thờ: “Qua nè, ba đứa con hy sinh thờ 3 lư hương đó!”.

Theo lời bà lão, một con rể và hai người con trai của bà hy sinh đợt Tết Mậu Thân 1968 và thời kỳ giặc “bình định” ác liệt. Bà cầm cục thuốc xỉa trên hàm răng, vừa hỏi tôi:

- Cháu có ảnh Bác Hồ cho qua 1 tấm. Lúc trước qua cũng có hình Bác Hồ. Rồi giặc lại đóng đồn, qua giấu trong lá cờ Mặt trận. Sau đó nhà bị cháy, đồ đạc cháy hết đâu còn gì…

Từ giã bà lão, tôi nhớ mà cảm thấy như còn nợ bà một tấm ảnh Bác Hồ. Tôi tiếp tục chống xuồng đi, vòng quanh trên cánh đồng rồi ra kinh rạch mà tôi không rõ địa danh. Tôi chèo mải miết, tìm nhà bác Chín Vĩ, người Bến Tre, thân sinh anh Ba Hùng. Tôi biết bác Chín năm 1970, lúc tôi công tác chung với anh Ba. Gần một năm sau ngày giặc tái chiếm chi khu Rạch Ráng, bác Chín bằng mọi cách xuống tới nhà anh Ba ở kinh cũ để thăm cháu nội. Mấy năm “bình định” ác liệt, giặc đóng đồn Xẽo Dá, Cái Bát và tứ giăng trên đất Lợi An. Ðến cuối năm 1974, giặc chạy, không còn đồn bót nhưng ở đây là vùng ven, vùng yếu, vùng tiếp giáp, cách thị xã Cà Mau 7 km về phía Nam.

Bác Chín (1916-1976) vóc dáng ốm cao, gương mặt phúc hậu, đức tính hiền, giọng nói nhỏ nhẹ và nét đào hoa, đẹp lão. Bác biết nghề võ nhưng ở đời không mích lòng chòm xóm, bà con. Một ngày cuối năm 1974, khi tìm được nhà, tôi bước lên, chào hỏi:

- Mạnh khoẻ bác Chín ơi!

Nghe gọi đúng thứ, bác Chín rời chiếc võng, đứng dậy, bước ra nhìn kỹ và nhận ra tôi, bác nói nhỏ:

- Ủa, cháu hả?

Tôi “dạ” và hỏi tiếp:

- Bác về đây lâu chưa?

Bác Chín nói:

- Mới về vài hôm. Nhà ở ngoải (kinh Bà Cai) sang lại cho người khác rồi!

Vậy là tôi may mắn được gặp bác Chín “mới về vài hôm” ngay nhà đất cũ tại đây. Bác nói thật nhỏ như dè chừng:

- Mầy coi vầy mà làm sao ở được. Ðồn nó đóng sát bên. Nó bắn rát lưng. Dọn đồ đi, nó hổng cho. Hễ xuồng ai ghé lại bến này là nó đuổi. Nó sợ chở đồ nhà tao đi…

Chị Hai (dâu bác Chín) đang ngồi may bên giàn máy may cũng nói:

- Chú ơi, giặc giã làm quá, riết rồi hổng dám ở nhà. Nhà này giao cho du kích ở làm công sự mà bao vây đồn Cái Bát bên góc bờ…

Anh Hai - Bùi Minh Lý (1938), con trai cả của bác Chín, Xã uỷ viên, Trưởng Ban Binh vận xã Lợi An, hy sinh năm Mậu Thân 1968. Chị Hai và các con của chị là Hồng Nga, Hồng Nhiên, Thu Thuỷ, Hồng Thắm sống chung nhà với hai bác Chín. Tôi nhìn chiếc tủ bóng loáng có thủng một lỗ và trên mặt bàn cũng bị thủng lỗ chỗ, bác Chín nói:

- Ðạn nó bắn đó. Xác nhà trước tiêu hết. Nhà này mua của người ta, dỡ về, mới cất lại hồi năm kia.

Bác Chín gọi đứa cháu nội:

- Nhiên, lấy mãng cầu xẻ cho chú bây ăn.

 - Lúa khá không bác Chín? Tôi hỏi. Bác cho hay:

- Khá. Nói đáng, nhờ êm mình làm ruộng được.

Cháu Hồng Nhiên bưng ra một dĩa 3 miếng mãng cầu xiêm, mời tôi: “Chú ăn mãng cầu”. Bác Chín gái, cũng người Bến Tre, nhắc gọi tôi mấy bận:

- Bây ăn đi. Ở nhà mới ăn rồi!

Tôi cầm miếng mãng cầu bước ra đằng sau, vừa thưởng thức hương vị chua ngọt, vừa nhìn quanh vườn. Sau nhà bác Chín có nuôi con sáo huýt gió nghe lảnh lót… Ở trong nhà, bác Chín chu đáo “bổ sung” vào bì của tôi một cục thuốc gò và xấp giấy quyến, chăm chút việc nhỏ mà thân tình biết bao…

Khi tôi từ giã, bác Chín thật tâm lý, cầm tiền bỏ vào túi áo tôi thật nhanh. Tôi khó mà từ chối. Trên đường vòng ra Rạch Muỗi, Tân Ðức về Cái Rắn, Rau Dừa, tôi xem lại biết bác Chín cho tôi 500 đồng tiền Sài Gòn cũ.

Thời chiến, mỗi tháng tôi lãnh sinh hoạt phí từ vài chục đồng, đến cuối năm 1974 lãnh gần 200 đồng (tiền Sài Gòn cũ), dành dụm 2 tháng sắm được một bộ đồ vải lin-phăng 2 cal chỉ màu xanh rêu mới toanh… Qua rồi thời niên thiếu, một chàng trai trưởng thành đi công tác được bà con người Bến Tre ở Cà Mau dành tình cảm thương như cháu ruột mà “lì xì” cho tôi có tiền xài Tết - vui quá trong bụng và duy nhất chỉ cái Tết sau cùng chiến tranh kết thúc, kỷ niệm nhớ suốt trong đời…

Chuyến hành trình bằng xuồng chèo năm ấy, tôi vượt sông Ðốc, xuyên vùng ven phía Nam thị xã Cà Mau, ký ức còn sống động một thời kháng chiến. Ngày ấy, tôi đi trong niềm lạc quan, phơi phới và nhớ mãi cảm giác lâng lâng, sung sướng trên chặng đường mùa xuân 1975./.

Nguyễn Minh

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.