Thứ sáu, 19-9-25 02:17:25
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Sao sa

Báo Cà Mau “Một vì sao sa, năng lượng của nó làm rực rỡ bầu trời. Một người ra đi, quá khứ của họ làm tim ta toả sáng”. Mỗi đoạn trong bài viết này là mỗi nén hương kính cẩn, nghiêng mình thương tiếc một con người trọn đời vì dân vì nước - là mỗi ly rượu pha cùng nước mắt đưa tiễn một người chú, người cha mà tất cả cuộc đời là tấm gương trong về đức hy sinh, khí phách hiên ngang, oanh liệt và tấm lòng độ lượng, bao dung.

“Một vì sao sa, năng lượng của nó làm rực rỡ bầu trời

Một người ra đi, quá khứ của họ làm tim ta toả sáng”

Mỗi đoạn trong bài viết này là mỗi nén hương kính cẩn, nghiêng mình thương tiếc một con người trọn đời vì dân, vì nước - là mỗi ly rượu pha cùng nước mắt đưa tiễn một người chú, người cha mà tất cả cuộc đời là tấm gương trong sáng về đức hy sinh, khí phách hiên ngang, oanh liệt và tấm lòng độ lượng, bao dung.

Tôi biết chú Ðoàn Thanh Vị (Ba Vị), nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải từ năm 1961, khi làng rừng ở Dồ Mốp giải thể. Lúc đó chú Ba là Thường vụ Xã uỷ xã Khánh An, huyện Trần Văn Thời. Ngôi nhà lá đơn sơ, che nắng, che mưa - tổ ấm của những gia đình cán bộ từ trong làng rừng xa xôi, mới được dựng tạm bên bờ kinh Cây Bàng ven rừng tràm U Minh.

Làm sao không khỏi ngỡ ngàng khi lần đầu tiên tôi mới thấy sạp lót trên giường ngủ trong nhà chú Ba là một tấm đăng sậy sau khi xây nò đầy hàu, đầy hến người ta đã bỏ đi. Bốn phía vách phên đều không lành lặn, bếp núc, xoong nồi đều lạnh tanh. Thím Ba một mình tần tảo đi cấy, đi cào nuôi 6-7 người con.

Ông Đoàn Thanh Vị phát biểu tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Minh Hải lần thứ V, nhiệm kỳ 1977-1980, tổ chức vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/1977. Ảnh: Hoài Hãn (chụp từ tư liệu qua màn hình ti-vi)

Có tận mắt chứng kiến mới hiểu được cái nghèo, có hiểu được cái nghèo mới biết được tấm lòng của người nghèo đối với cách mạng. Nhà chú Ba nghèo lắm, nhưng chiến tích và tấm lòng thì không hề nghèo.

Xã Khánh An thời điểm ấy là chiếc nôi cung cấp nhiều cán bộ cho huyện Trần Văn Thời. Chỉ trong thời gian vài ba năm, các đồng chí bí thư xã như Ba Biền, Chín Cư, Bảy Thanh, Hai Phối đều được rút về trên. Chú Ba Vị được đề bạt bí thư xã không lâu cũng được điều động lên làm Huyện đội phó huyện Trần Văn Thời.

Ngày 20/5/1964, sau nhiều ngày bị các lực lượng vũ trang của ta bao vây uy hiếp, bọn địch tại Ðặc khu Khai Hoang, xã Khánh An kêu cứu khẩn cấp. Bọn Vùng 4 Chiến thuật cho pháo binh, không quân và bộ binh đến giải toả. Hai bên đánh xáp lá cà mấy tiếng đồng hồ, rất nhiều địch chết và bị thương, nhưng bên ta cũng tổn thất nặng nề: 86 chiến sĩ hy sinh, một số bị thương. Ðịch gom xác anh em thành nhiều đống rồi canh giữ không cho ta lấy thây. Ðến ngày thứ 8, gia đình và người thân biết chồng con, anh em còn phơi mình ngoài chiến địa, có lòng dạ nào ngồi đứng cho yên.

Trong khi mọi ý kiến đề xuất, mọi kế hoạch tiến hành thu gom thi thể đồng đội đều bế tắc, chú Ba Vị bàn với các đồng chí lãnh đạo rồi tổ chức một cuộc họp đảng viên, bên trên treo lá cờ Ðảng. Là người chủ trì cuộc họp, sau khi trình bày tình hình đang diễn biến, chú Ba nói: “Bất kỳ giá nào chúng ta cũng phải lấy cho được xác đồng đội đem về an táng chu đáo, nhưng đây là việc làm hết sức nguy hiểm, đòi hỏi phải chấp nhận hy sinh! Ai là người tình nguyện cùng tôi đi lấy thây các chiến sĩ hãy đưa tay lên!”.

Một cánh tay rồi nhiều cánh tay và gần như đồng loạt mọi người đều giơ tay. Thân thể anh em lúc này đã thối rữa, địch không canh gác nổi, chỉ sau mấy hôm, ta đã hoàn tất việc tìm kiếm đầy đủ và chôn cất liệt sĩ đàng hoàng. Ðơn vị Ðịa phương quân lúc đó hy sinh nhiều nhất, nhưng không bao lâu được bổ sung đầy đủ và chiến đấu ngoan cường. Cho đến bây giờ vẫn có người nói “nếu lúc đó không có ông Ba Vị không biết sẽ ra sao, vì ông đã biến thất bại thành thắng lợi”. Phải chăng do tấm lòng của một người lãnh đạo không nỡ bỏ anh em mà đau thương như được băng bó và lành lặn?

Ðồng chí Nguyễn Minh Phúc, nguyên Khu Ðoàn uỷ viên, Hiệu trưởng Trường Nguyễn Chí Thanh, từng nhắc việc chú Ba lúc về làm Chính trị viên Công binh xưởng tỉnh Cà Mau (Xưởng Quân giới Cà Mau) giai đoạn 1964-1967. Chú cho sưu tầm, nghiên cứu các loại vũ khí của ta từ thời chống Pháp và đưa người sang Kiên Giang mua máy tiện cũng như mời cán bộ quân giới của trên về tập huấn để tiếp tục chế tạo lăng-xà-bom bắn cháy tàu sắt, đặc biệt là cải tiến bê-ta thành mìn định hướng mặt lõm, phá huỷ hàng rào dây thép gai của địch. Hàng trăm tàu sắt bị bắn chìm, cùng nhiều đồn bót địch bị tiêu diệt thời điểm đó có sự góp phần không nhỏ của Công binh xưởng Cà Mau do chú Ba phụ trách.

Tháng 11/1968, chú Ba được điều về làm Chính trị viên phó Tiểu đoàn 410. Khi đơn vị này chuyển lên tuyến đường 1C tại Kiên Giang, Khu uỷ chỉ định chú ở lại làm Bí thư Huyện uỷ Thới Bình. Lúc này bọn Sư đoàn 21 của địch liên tục ruồng, càn rừng U Minh Thượng - Hạ, đồn bót địch khắp nơi. Xét thấy tiến công quân sự khó thắng nổi, chú Ba chủ trương đẩy mạnh mũi binh vận “mỗi đảng viên phải xây dựng cho được một cơ sở trong lòng địch”. Thời điểm cao nhất, huyện Thới Bình có đến 150 cơ sở với tổng số 35 đồn bót trong huyện. Chiến dịch Xuân - Hè năm 1972, hệ thống đồn bót địch liên tục vỡ tan từng mảng lớn, Thới Bình là huyện dẫn đầu đánh thắng bình định vang dội sau Tết Mậu Thân của tỉnh Cà Mau.

Tháng 9/1973, khi Khu uỷ thành lập tỉnh Bạc Liêu, chú Ba là Thường vụ Tỉnh uỷ, Chính trị viên Tỉnh đội Bạc Liêu, trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 1 từ Cà Mau đưa lên. Do địa bàn xa lạ, cả 3 trận đầu đều không thắng lợi. Giải quyết thế nào đây? Một cuộc họp toàn quân tìm nguyên nhân, rồi tại lễ tình nguyện đánh thắng trận đầu, chú là người xung phong ra trận, trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Do ý chí quyết tử giành thắng lợi, dù là cán bộ lãnh đạo, chú vẫn cùng chiến sĩ ra trận diệt địch giành thắng lợi…   

Tháng 4/1974, chú được Khu uỷ chỉ định làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, lúc đó chủ trương của Khu uỷ là “Các địa phương phải tự lực giải phóng, không chờ sự chi viện của trên”. Nhận định binh vận là mũi đột phá cuối cùng, chú Ba bố trí cán bộ đến gặp Ðại tá, Tỉnh trưởng Bạc Liêu Nguyễn Ngọc Ðiệp thuyết phục hắn.

Sáng 30/4/1975, Ðại tá Ðiệp chấp nhận đầu hàng, trong khi các tỉnh khác ở Tây Nam Bộ chưa nơi nào địch chịu buông súng. Sự kiện này làm cho Bạc Liêu ghi thêm chiến tích phi thường một lần nữa trong lịch sử chiến thắng của mình, đó là cả hai lần giành chính quyền về tay Nhân dân (năm 1945 và năm 1975) đều không đổ một giọt máu.

Có người viết thơ ca ngợi chú Ba:

“Bản anh hùng ca còn mãi tiếng vang

Ðoàn Thanh Vị đất Bạc Liêu bất tử”

Những ngày đầu giải phóng, để giúp cả nước vượt qua “cửa ải” lương thực, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Minh Hải chủ trương mua gỗ miền Ðông và xi-măng, sắt thép, phân bón đem về đổi lúa với nông dân, tạo nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào cho cả nước, rồi tiếp theo tổ chức hợp tác với Lào đem gỗ về thực hiện chương trình “ngói hoá nông thôn”. Việc làm đầy sáng tạo này được ngợi ca chẳng khác một chiến công to lớn trong thời bao cấp và chú Ba Vị cũng là người chịu trách nhiệm sau cùng đối với chủ trương nhiều biến động này.

Quê hương Trần Văn Thời, U Minh bị chia cắt với Cà Mau bởi sông Trẹm và sông Ông Ðốc, muốn lưu thông nhanh chóng phải cần một cây cầu nơi Tắc Thủ. Chú Ba chỉ đạo huyện U Minh biến tràm đến vụ khai thác thành vật tư, tức là “cái không thể thành có thể”. Bây giờ, mỗi lần đi qua 2 cây cầu Tắc Thủ và Khánh An, có ai quên được người hiến kế? Nếu như trước đây đi tàu đò từ Cà Mau đến Khánh Hội phải mất cả ngày trời, bây giờ đi xe buýt chỉ còn vài tiếng đồng hồ. Chú Ba còn đề xuất với U Minh “hãy biến ngã ba Biện Nhị - Cái Tàu thành ngã tư, mở rộng thị trấn U Minh về hướng Ðông Nam” tạo nên phố xá đông đảo, sầm uất hơn. Ðối với chú, chợ là thước đo, là “bà đỡ” cho sự phát triển kinh tế một địa phương, phải quy hoạch sao cho chợ rộng lớn càng nhanh càng tốt. 

Trong chiến tranh, chú Ba chịu đựng biết bao đau thương, mất mát. Từ tháng 6/1971 đến tháng 5/1972, không đầy 1 năm, thân sinh của chú bị mìn nổ chết, rồi 2  con trai và 1 con rể hy sinh. Thời gian đó chú đang chỉ đạo đánh địch tại Thới Bình, không một lần về thăm nhà được. Ngồi nghe chú kể, thật khó tránh khỏi bồi hồi: “Một lần về đến cơ quan, thấy chị Tư Giang, Phó Bí thư Huyện uỷ Thới Bình, cùng một số anh, chị em dọn mâm cơm, nói là chuẩn bị để tôi “cúng cơm ông già”, tôi mới sực nhớ hôm đó là ngày giỗ của ba tôi!”. Quên hết cái riêng để lo cho cái chung là lẽ sống của cán bộ, chiến sĩ trong thời kháng chiến.

Một con người biết suy cổ, luận kim và từng ứng dụng mưu lược của người xưa trong chiến đấu chống quân xâm lược nên lúc nào chú cũng có thể cười trong những trường hợp không vui. Không theo đạo Phật nhưng chú hiểu ý nghĩa của từ, bi, hỷ, xả - tha thứ cho tất cả, đó là tư tưởng của những nhà hiền triết.

Chú ra đi thật sự thanh thản vì cuộc đời không quên chú như ngày còn sống chú không quên cuộc đời. Chú đã dành tất cả cho đại cuộc, còn bây giờ biết bao người dành cho chú tất cả niềm yêu thương, kính trọng. Dù không phải là nhà điêu khắc nhưng chú đã ghi tạc vào lịch sử quê hương những đường nét hào hùng. Những đường nét không bao giờ mờ phai, hôm nay và mãi mãi!

Quá khứ là đòn bẩy của hiện tại và tương lai. “Ðòn bẩy” của chú làm nhiều thế hệ nối tiếp noi theo từ lời ăn, nết ở, từ khí phách trước quân thù và lòng bao dung với đồng đội, độ lượng với anh em. Ðó là một quá khứ làm bừng sáng mọi trái tim.

Quê hương U Minh đón chú về cõi vĩnh hằng nơi đất mẹ như đón tiếp một bản anh hùng ca đời đời vang vọng!./.

11/7/2015

Trường Sơn Ðông

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.