Thứ năm, 18-9-25 17:53:04
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Báo Cà Mau Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tranh: MINH TẤN

Tranh: MINH TẤN

Với cương vị là Bí thư Huyện uỷ, tôi cùng với tập thể Ban Thường vụ Huyện uỷ triệu tập cuộc họp khẩn Huyện uỷ mở rộng, bàn kế hoạch tấn công chi khu Rạch Ráng với mọi lực lượng địa phương hiện có, cuộc họp diễn ra ở Cơi Nhì, xã Trần Hợi. Trải qua những năm tháng khó khăn ác liệt, mới sống đó rồi cũng chết đó, tôi chưa bao giờ chứng kiến một cuộc họp hừng hực khí thế như hôm nay. Mọi người đều nêu phương án tấn công tốt nhất, hạn chế thương vong đến thấp nhất và kết thúc với thời gian sớm nhất.

Cuộc họp đã thống nhất thành lập Ban chỉ huy thống nhất gồm 8 đồng chí, tôi làm trưởng ban, cùng các đồng chí: Lê Hồng Thương (Hai Mương), Phó bí thư Thường trực Huyện uỷ; Nguyễn Thanh Vân (Sáu Tài), Huyện đội trưởng; Mai Hữu Chiến (Năm Chiến), Trưởng ban Binh vận huyện; Lê Văn Trọng (Năm Trực), Trưởng ban An ninh huyện; Nguyễn Văn Biên, Huyện đội phó; Lê Minh Hiền, Bí thư Huyện đoàn và một số đồng chí khác. Ðồng chí Trần Hữu Vịnh (Hai Thống), Tỉnh uỷ viên được Thường vụ Tỉnh uỷ phân công chỉ đạo huyện Trần Văn Thời. Bữa cơm chia tay đạm bạc mà rất vui, sau đó ai về nhiệm vụ nấy như kế hoạch.

Về lực lượng ta, lúc này mỗi xã có một đại đội, huyện có 2 tiểu đoàn trên 400 quân, được trang bị khá mạnh, gồm cả đại liên, B40, AK, M79... Còn có loại vũ khí lợi hại khác mà chỉ có huyện Trần Văn Thời mới có, đó là 1.500 trái đạn 105 mm vừa thu được ở căn cứ Bà Thầy. Vậy mà, khi báo cáo về tỉnh, huyện chỉ khai có 800 quả, tỉnh rút hết 400. Như vậy, với 400 quả còn lại, cộng với số của “để dành”, huyện có trong tay 1.100 quả. Mỗi trái đạn 105 mm được cải tiến nằm trên bệ phóng là nỗi kinh hoàng của bọn đồn trú.

Phía địch, hiện có trên 400 quân, gồm 1 tiểu đoàn bảo an, hơn 300 quân, do tên đại uý Thạch Văn Nghiệp làm tiểu đoàn trưởng, đại uý Lê Hữu Hạnh phụ trách cảnh sát, đại uý Hoà, quận phó. Ðặc biệt, tên thiếu tá Cần vừa được thay thế thiếu tá Trường làm quận trưởng đang trong thòng lọng chờ chết.

Cùng lúc này, theo mệnh lệnh của tỉnh, huyện Trần Văn Thời phải đưa 1 tiểu đoàn cho tỉnh để chuẩn bị giải phóng tỉnh lỵ An Xuyên, mục tiêu được giao là đánh chiếm khu Cao Thắng. Huyện cử đồng chí Ðoàn Văn Vĩnh, Phó bí thư, Chính trị viên Huyện đội gánh vác nhiệm vụ này. Như vậy, việc lực lượng tấn công chi khu Rạch Ráng đã bị rút bớt, Huyện uỷ Trần Văn Thời vẫn giữ quyết tâm, rút du kích các xã thành lập tiểu đoàn mới, bố trí lại lực lượng, sẵn sàng cho cuộc quyết chiến.

Trong tình thế bị bao vây, cô lập, nhưng bọn đầu sỏ vẫn ngoan cố, mơ mộng ở một phép màu nào đó để kéo dài sự sống, bản chất tàn bạo vẫn không thay đổi, ngày đêm tìm cách bung ra để phá thế bị bao vây. Ở hướng Kinh Cũ, bọn chúng bất ngờ cho một mũi thọc ra, làm 3 du kích ta hy sinh. Có dấu hiệu cho thấy, lực lượng ta chủ quan, cho rằng địch không dám liều lĩnh, chỉ chờ chết. Ban chỉ huy thống nhất lại họp, uốn nắn tư tưởng, chỉ rõ bản chất ngoan cố của địch, còn một ngày là chúng còn gây nợ máu với Nhân dân.

Ðến ngày 26/4/1975, các quân đoàn chủ lực của ta đã áp sát Sài Gòn. Trong tỉnh, các hướng tấn công ở huyện Thới Bình, Cái Nước, Ðầm Dơi, Châu Thành giành thắng lợi giòn giã, lực lượng ta đã đứng chân sát tỉnh lỵ An Xuyên. Ban chỉ huy thống nhất chuyển 500 lực lượng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh trực diện ở chi khu Rạch Ráng, đóng từ ngã tư Kiểu Mẩu ra kinh Hội Ðồng Thành để ra Cà Mau, thành lực lượng hậu cần, tiếp tế cho lực lượng bao vây Rạch Ráng do đồng chí Năm Sông và Tám Mỏng chỉ huy. Mũi tiến công binh vận do anh Mai Hữu Chiến phụ trách đã tung lực lượng thân nhân binh lính, cảnh sát, tề nguỵ ra chi khu vận động rã ngũ, trở về với gia đình, với ruộng vườn. Họ nói công khai, thẳng thắn, không sợ bị địch bắt bớ, đàn áp, chứng tỏ bọn địch đã dao động, tìm lối thoát.

Ngày 29/4/1975, được lệnh của quân khu, cuộc tổng tiến công vào tỉnh lỵ An Xuyên bắt đầu. Bọn địch ở chi khu Rạch Ráng không còn nhận được sự hà hơi từ những chiếc trực thăng. Ba hướng tiến công của ta từ Tham Trơi, Kinh Cũ và Rạch Lăng đã sẵn sàng. Hàng ngàn quần chúng tập trung chuẩn bị tràn ra chi khu khi có lệnh. Một phong trào cách mạng sôi sục chưa từng có, giờ khắc giải phóng huyện nhà đã rất gần. Ðồng chí Trần Minh Niên (Chín Niên) phụ trách truyền tin của Huyện uỷ có giọng nói khoẻ, diễn đạt mạnh, đã dùng máy PRC25 liên lạc với tên thiếu tá quận trưởng Cần, giải thích chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, ra lệnh cho chúng đầu hàng. Cứ một, hai tiếng đồng hồ, ta lại giục tên Cần một lần.

Tại gần vàm kinh Phát Thạnh, cách chi khu Rạch Ráng chừng hơn 1 km, ban chỉ huy thống nhất khẳng định, địch chỉ có con đường buông súng đầu hàng, khả năng phá vòng vây bỏ chạy không còn vì tại tỉnh lỵ cũng đang bị tấn công, địch đã hết đường chi viện. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá tổng tham mưu trưởng cũng ra lời kêu gọi tất cả các lực lượng vũ trang giải giáp, buông vũ khí.

1 giờ đêm, ngày 1/5/1975, tên thiếu tá quận trưởng Cần vừa nhận chức 10 ngày đã lên máy PRC25 liên lạc với ta, chấp nhận đầu hàng. Những người có mặt ở ban chỉ huy, các cán bộ Văn phòng Huyện uỷ mừng không nói nên lời. Chúng tôi thông báo cho các mũi chuẩn bị và ra lệnh cho địch tập trung vũ khí để một chỗ; binh lính, cảnh sát, tề nguỵ tập trung một chỗ chờ ta tiếp quản. Trong khi đó, điện báo cáo và xin ý kiến với bộ chỉ huy tiền phương, các anh cho rằng nên chờ sáng.

5 giờ sáng 1/5/1975, đồng chí Lê Tuấn (Năm Song), Phó ban An ninh huyện và một số đồng chí khác đã đi thẳng vào chi khu Rạch Ráng. Ðến nơi, gặp tên thiếu tá quận trưởng Cần và thấy bọn chúng xếp hàng thứ tự, vũ khí đã chất đống trước trụ sở cảnh sát. Bằng cách tiếp cận nhanh nhạy, các mũi tiến công của ta đã tràn vào chi khu, làm chủ tình hình, cờ Chính phủ cách mạng lâm thời tung bay trước dinh quận và nhiều nơi khác. 446 tên nguỵ quân, nguỵ quyền đã được áp tải về Kinh Cũ, địa điểm ta đã chuẩn bị trước. Ở một góc phòng của cơ quan cảnh sát, địch còn tranh thủ đốt giấy tờ, ta phải xông vào dập tắt. Ðúng 6 giờ ngày 1/5/1975, chi khu Rạch Ráng, cứ điểm cuối cùng của địch tại huyện Trần Văn Thời đã được giải phóng, Nhân dân ở các hướng cũng lần lượt tràn vào, niềm vui đến bất tận.

50 năm, hồi tưởng lại giờ khắc lịch sử hào hùng đó, tôi không sao quên được. Chỉ một mảnh đất mang cái tên rất đặc trưng là U Minh lại bị kẻ thù 11 lần dùng B52 rải thảm, 27 lần rải chất độc hoá học... Ngoài chi khu Rạch Ráng, còn có 3 căn cứ quân sự: Cầu Chữ Y (Trần Hợi), Nổng Cạn (Khánh Lâm), Bà Thầy (Nguyễn Phích), một đặc khu Khai Quang, 2 giang thuyền, thuỷ quân lục chiến, hạm đội nhỏ trên sông, pháo hạm ngoài biển và 64 vị trí, 72 đồn bót khác. Từ năm 1970-1972 với cái gọi là Chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”, các sư đoàn 21 và sư đoàn 9 nguỵ đã đổ quân càn quét, chà đi xát lại, đồng bào và cán bộ, chiến sĩ đã chịu đựng, đương đầu và chiến đấu với khí phách anh hùng.

Chiến tranh là chết chóc, chia ly, nhà tan cửa nát, nhưng chiến tranh cũng là nơi bộc lộ chân gốc rạch ròi ta - địch, là nơi tôi luyện lòng yêu nước, sự dũng cảm hy sinh vô bờ bến của mỗi con người. Ngoài lực lượng vũ trang thì mũi đấu tranh trực diện và binh vận đã để lại biết bao tấm gương đặc biệt xuất sắc, chỉ thiếu trên ngực áo họ những tấm huân chương lấp lánh hào quang. Tôi ngàn lần tri ân những đóng góp, hy sinh thầm lặng của Nhân dân để có hoà bình, độc lập, thống nhất như hôm nay./.

 

Cao Kim Dân

Nguyên Bí thư Huyện uỷ Trần Văn Thời

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.