Thứ năm, 18-9-25 21:04:57
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Trang Bá Phúc - Hình ảnh ðẹp trong lòng đồng đội

Báo Cà Mau (CMO) Đợt I Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, với vai trò Ðại đội trưởng Ðại đội Thanh niên xung phong (TNXP) Nguyễn Việt Khái I Cà Mau (thuộc Liên đội 9, Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam), chỉ huy 1 trung đội phục vụ chiến đấu ở chiến trường miền Ðông Nam Bộ, ông Trang Bá Phúc thức trắng 7 đêm liền cùng đồng đội chăm sóc và chuyển 10 thương binh nặng từ Long Bình (ven đô Sài Gòn) về hậu cứ gần sông Tha La - Tây Ninh.

Trong lúc khiêng thương binh, phải vượt qua nhiều con đường gần đồn bót giặc, pháo địch bắn chặn, ông Trang Bá Phúc bị nhiều mảnh đạn ghim vào người. Máu ra nhiều, ông xé khăn choàng của mình tự băng bó vết thương, kiên quyết nhường thuốc, bông băng cho thương binh. Ông còn luôn nhắc nhở y tá: “Thuốc, bông băng còn ít, phải ưu tiên cho thương binh nặng”.

Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND) Trang Bá Phúc (người thứ 2 bên phải) tại Ðại hội liên hoan Chiến sĩ thi đua - Dũng sĩ TNXP lần thứ 2 (bên trái là chị Phan Thị Quyên, vợ Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi). (Nguồn ảnh: Ban Liên lạc TNXP Giải phóng miền Nam).

Trên đường đi, đồng đội thấy ông đuối sức, đem võng đến để khiêng, ông khoát tay và nói: “Ðơn vị ít người, đường xa, còn phải khiêng 10 thương binh nặng. Nếu các đồng chí khiêng tôi thì làm sao đủ người để khiêng thương binh?!”. Rồi ông chặt cây làm gậy, tự trang bị cho mình. Thương tích đau đớn, di chuyển khó nhọc, nhưng ông vẫn không màng tới bản thân, mà cứ luôn miệng nhắc nhở anh chị em phải hết sức chú ý bảo vệ thương binh, chăm sóc họ tận tình. Bằng mọi cách “không để thương binh bị thương lần thứ 2”, câu nói ấy không còn là khẩu hiệu mà trở thành mệnh lệnh từ trái tim của mỗi TNXP thời ấy, và với người chỉ huy như ông, trách nhiệm này càng nặng nề hơn.

Vừa về đến Bệnh viện K71 (Trung ương Cục miền Nam), ông bị ngất xỉu. Bấy giờ y, bác sĩ kiểm tra, phát hiện ông bị đến 7 vết thương rất sâu, mất rất nhiều máu. Vậy mà vừa tỉnh dậy, thấy anh chị em vây quanh mình, ông lại hỏi ngay: “Anh em thương binh có ai bị làm sao không?...”.

Ðồng đội nài nỉ ông nằm lại bệnh viện điều trị cho lành hẳn vết thương, nhưng ông nhất định không nghe. Ông chỉ yêu cầu cho ở lại 1 tuần rồi ra viện, trở về đơn vị để tiếp tục phục vụ chiến đấu.

Lần khác (cách sau đó không lâu), tại Thuận Giao (TP Thuận An, tỉnh Bình Dương ngày nay), đơn vị chuyển 30 thương binh trong nội đô về tuyến sau. Trời sáng, phải dựa vào hệ thống “hầm Nhật” trú ẩn (hầm hào Nhật đào khi xâm lược Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ 2, ngang khoảng 4 m, sâu 3 m). Ðịch phát hiện, cho xe tăng tiến đánh. Ông chỉ huy đơn vị chống trả quyết liệt, kiên quyết bảo vệ thương binh. Ông ra lệnh anh em chờ xe tăng địch đến gần, dùng thủ pháo ném vào xích xe và sử dụng AK bắn vào chúng. Chính ông là người xông lên đánh địch đầu tiên và nhiều lần tiếp theo, tạo khí thế xung trận cho đơn vị. Trận này ta tiêu diệt được nhiều tên Mỹ, phá huỷ 1 xe tăng, buộc địch phải lùi ra xa. Tuy vậy, đơn vị cũng bị mất mát lớn, có 5 đồng đội hy sinh, 3 bị thương (trong đó có ông - khi các vết thương trước đó còn chưa kịp lành).

Còn rất nhiều câu chuyện được đồng đội kể về ông bằng niềm tự hào và tình cảm thân thương, nể phục. Ông hiện lên trong mắt họ không chỉ là một cán bộ lãnh đạo bản lĩnh, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, luôn xung phong, gương mẫu nhận phần khó về mình, hết lòng bảo vệ thương binh, làm tròn nhiệm vụ được giao phó, mà còn là tấm gương tiêu biểu về tinh thần “nhịn cơm, nhường nước uống, nhường hầm trú ẩn...” cho đồng chí, đồng đội.

Ông Lê Văn Bình, cựu TNXP Nguyễn Việt Khái I, nhắc về ông Trang Bá Phúc bằng tình cảm yêu thương và thán phục: “Hồi đó, ở đâu khó khăn, ở đâu có thương binh, dù nguy hiểm cỡ nào, anh Trang Bá Phúc cũng có mặt. Có thể nói, chỗ nào gian khổ nhất, mấy người khác còn do dự thì ảnh xung phong...”.

Bà Phạm Hồng Vân (Khéo), cựu TNXP Nguyễn Việt Khái I, xúc động: “Anh Trang Bá Phúc (Sáu Phúc) khi còn là y tá thì chăm sóc thương binh hết sức tận tình; từ băng bó, rửa ráy vết thương, thuốc men, đến nấu từng chén cháo, chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho thương binh. Ðến lúc làm lãnh đạo đơn vị, anh cũng đặc biệt quan tâm nhiệm vụ này. Ðối với anh chị em trong đơn vị, anh sống rất chan hoà, luôn quan tâm, yêu thương, đùm bọc như ruột thịt. Nhớ lần đó, chúng tôi đi thồ hàng, bị giặc phát hiện, chặn đánh không về được. Lúc về, đêm khuya mưa gió, đói khát đi không nổi, nằm la liệt dọc đường. Anh đã chỉ đạo nấu cơm, rồi đích thân đem từng bọc đi phát cho anh chị em ăn”.

Cũng trong dòng hồi ức của bà Vân: “Hồi đó, đơn vị sống trong rừng, mỗi người được trang bị một cái võng và cái mùng; tối đến mắc võng vào cây rồi giăng mùng trên võng ngủ. Ban đêm, anh thường đi kiểm tra, kéo mí mùng ém lại cho chúng tôi, tránh muỗi cắn. Tụi tôi hồi đó tuổi chỉ mới mười sáu, mười bảy, hai mươi..., xa gia đình, được người thủ trưởng chăm lo như vậy, chúng tôi thấy ấm áp, có niềm tin, động lực rất lớn về tinh thần để vượt qua muôn ngàn hiểm nguy, gian khó, hoàn thành tốt nhiệm vụ”.

Ông Trang Bá Phúc sinh năm 1947, quê quán tỉnh Kiên Giang, tham gia Ðại đội TNXP Nguyễn Việt Khái I Cà Mau từ ngày đầu đơn vị thành lập (1966). Trước đó ông công tác ở Quân y huyện An Biên (Kiên Giang). Năm 1971, ông được Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam chọn điều động sang lực lượng Công an vũ trang T1 (miền Ðông Nam Bộ). Trong 5 năm công tác ở Ðại đội TNXP Nguyễn Việt Khái I Cà Mau, ông trực tiếp tham gia phục vụ 147 trận đánh cấp tiểu đoàn, trung đoàn; có nhiều trận đánh mà chiến thắng đã đi vào lịch sử như: Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Nhà Ðỏ, Bông Trang, Cần Lê, Cần Ðâm, Căm Xe... Dù khi còn làm y tá đơn vị hay lên chỉ huy, ông luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, là tấm gương tiêu biểu về tinh thần phục vụ chiến đấu và chiến đấu của đại đội.

Tại Ðại hội liên hoan Chiến sĩ thi đua - Dũng sĩ TNXP lần thứ 2 của Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam (tháng 6/1969), ông Trang Bá Phúc được bình chọn là chiến sĩ thi đua toàn Tổng đội, là đại biểu dự Ðại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua của Quân giải phóng miền Nam. Bên cạnh đó, ông còn được tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Ba, Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ Quyết thắng và nhiều bằng khen, giấy khen của Cục Hậu cần, Sư đoàn 9, Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam và Liên đội 9.

Sau giải phóng, ông Trang Bá Phúc được điều động về Ty Công an tỉnh Kiên Giang công tác. Do bị nhiều vết thương trong phục vụ chiến đấu và chiến đấu, sức khoẻ bị suy giảm, ông được tổ chức cho nghỉ chính sách.

Các cựu TNXP đơn vị Nguyễn Việt Khái I bùi ngùi kể lại, khoảng đời tuổi trẻ ông đã cống hiến hết mình cho đất nước, khi về nghỉ tại quê nhà ấp Minh Cường A, xã Minh Thuận, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang, sức khoẻ ông giảm sút nhiều, cuộc sống gia đình khá chật vật, khó khăn. Ông bị bệnh tai biến và mất năm 2001.

“Một điều đáng nói là, anh Trang Bá Phúc dù không phải người Cà Mau, nhưng gia nhập đơn vị Cà Mau và công tác hết sức nhiệt tình, thương yêu đồng đội hết mực, không hề có khoảng cách, không so tính thiệt hơn... Tất cả vì nhiệm vụ chung là cống hiến hết sức mình để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hình ảnh anh thật đẹp, thật đáng kính trong lòng anh chị em, đồng đội”, bà Phạm Hồng Vân cảm kích.

Chính vì thấy được công lao to lớn của người đồng đội, người thủ trưởng đáng kính, các cựu TNXP Nguyễn Việt Khái I đã ngồi lại bàn bạc và viết thành tích đề nghị khen thưởng cho ông. Và niềm vui, tự hào đến với mọi người, với đơn vị là năm 2010, ông Trang Bá Phúc được Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND./.

 

Huyền Anh

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.