Thứ năm, 18-9-25 17:55:43
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bến Dựa một lần về

Báo Cà Mau Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Được tháp tùng với Ðoàn Cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1 về Bến Dựa, trong tôi chẳng những phấn khích bởi tượng bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa vừa mới hoàn thành, ghi dấu một đơn vị quân đội non trẻ và những người con anh hùng đã làm nên chiến công đầu, chói lọi; Bến Dựa còn lưu giữ quá nhiều kỷ niệm trong tôi hơn 65 năm về trước.

Trưởng ban Liên lạc Cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1 Nguyễn Minh Phúc; Trần Hà Thanh, nguyên Tham mưu trưởng Tiểu đoàn; Ðặng Thành Long, nguyên Ðại đội trưởng Ðại đội 1002, mà tiền thân là Tiểu đoàn Ngô Văn Sở và một số cụ khác tuổi đã ngoài U80, U90 chầm chậm leo lên các bậc thềm, mắt đăm đăm nhìn lên những dòng chữ trên bia tượng, không nén được xúc động. Tại nơi này, cách đây 65 năm, đơn vị của các anh đã làm nên chiến thắng vang dội. Và, dọc theo bãi mắm này, 6 đồng đội của họ đã anh dũng hy sinh trong buổi sáng đó. Máu của họ đã hoà vào đất, những tấm bia ghi tên họ các anh rải rác ở các nghĩa trang, những người vợ, người con của họ không còn khóc, hồn thiêng của họ đã khắc vào những dòng chữ trên bia.

Bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa. Ảnh: THANH MỘNG

Bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa. Ảnh: THANH MỘNG

Do biến đổi của địa hình và việc bố trí lại dân cư, tổ chức cơ quan hành chánh, bia tượng chiến thắng Bến Dựa được đặt cạnh cơ quan xã Hiệp Tùng, sát khu dân cư, cách trận địa ngày ấy hơn 1 km, mặt trông ra bờ sông với bãi mắm, dây cóc kèn như là một chứng thực của trận đánh 65 năm trước. Nhân ngày lễ, Tết, chính quyền địa phương tổ chức lễ viếng, Nhân dân qua lại thắp những nén nhang tỏ lòng tri ân, thương tiếc.

Hai ngày phục kích đón đoàn chài của Trần Lệ Xuân ở kênh xáng Cái Ngay, thì Ðại đội 1002 do đồng chí Sáu Nhung làm Ðại đội trưởng đã ngoặt vô Bến Dựa, chặn đánh đoàn Bác Ái - thực chất là tổ chức tuyên truyền chiến tranh tâm lý của chính quyền Ngô Ðình Diệm, trực thuộc phủ tổng thống được một đại đội thuỷ quân lục chiến và trung đội bảo an hộ tống từ Thanh Tùng về kênh xáng Cái Ngay. Ngày càn quét đánh phá dọc theo rạch Bào Dừa, tối lại địch gom dân để chiếu phim lừa mị, tôn sùng Ngô Ðình Diệm và quan thầy Mỹ, vu khống cộng sản.

6 giờ 40 phút ngày 25/3/1960, chiếc tàu gỗ chở toàn bộ quân địch lọt vào trận địa phục kích của ta, khẩu trung liên do Trung đội trưởng Nguyễn Văn Như nổ súng phát lệnh, chiếc tàu mất lái thả trôi theo dòng nước chảy siết, rồi đâm mũi lên bờ sát công sự của ta. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt, số địch sống sót dồn ra mũi tàu để lên bờ. Ta vừa vận động bắn thẳng vào thân tàu, vừa tập trung hoả lực tiếp ứng hướng chính diện, xác địch số văng xuống sông, số la liệt trên bờ.

Do con nước ròng bỏ bãi rất sâu, từ công sự không thể phát huy được hoả lực, các chiến sĩ của ta đã đứng thẳng chĩa mũi súng xuống thân tàu nã đạn. Trung đội trưởng Phạm Công Thâu, Nguyễn Văn Như, Trung đội phó Lưu Văn Dự, Tiểu đội trưởng Trần Việt Hoa, Lâm Chí Cang, xạ thủ trung liên Chín Trương, 6 con người đã dũng cảm ngã xuống trong tư thế đó.

Ðể có những dòng chữ cô đúc trên bia, thực địa của trận đánh chi tiết đến ngàn lần, tiếng nổ, khói súng, những thân người vạch rừng truy kích địch, những ánh mắt rực lửa căm thù, động tác quỵ xuống của đồng đội, sự chống trả điên cuồng của địch... không bức phù điêu nào tả hết. Sau 30 phút chiến đấu, ta đã làm chủ trận địa, hơn 100 tên địch đền tội, bắt 51 tù binh, số sống sót luồn rừng chạy ra kênh xáng Cái Ngay chờ cứu viện. Ta thu 120 súng các loại, trong đó có 1 cối 60 ly, 12 trung liên, số còn lại Thompson, Carbin, trường tự động, 1 máy chiếu phim và nhiều quân trang quân dụng.

65 năm chiến thắng Bến Dựa, lần nữa các cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1, đơn vị 3 lần được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, được dịp hồi tưởng chiến công, lắng nghe hồn thiêng đồng đội của mình, nói với các anh trách nhiệm của người đang sống. Dẫu rằng, cứ mỗi lần về Bến Dựa là có người vắng mặt, đi xa.

***

Có lẽ điểm nhấn của Bến Dựa trước đồng khởi 1960 là trại đáy của ông Sáu Tân, cư dân duy nhất ở khúc sông này. Chỉ một cái nhà ba gian lợp lá, sàn phơi trên gò đất và liếp lượm sát mé sông. Vốn tốt bụng và ở vị trí thuận lợi, gia đình ông Sáu tất nhiên là nơi cung cấp thông tin về địch, nơi nuôi chứa, san sẻ thức ăn cho làng rừng.

Là người có tầm vóc cao quắc thước, miệng rộng, tiếng nói vang vang như sấm đầu mùa, nước da đồng đen, bộ đồ bà ba ống rộng. Ông Sáu giao hết công việc hàng đáy cho các con trai, con dâu và con gái Út Ngọc, thỉnh thoảng ông mới nhúng tay vào khi cột đáy có dấu hiệu siêu vẹo, các dây chằng không đủ lực khi nước chảy xiết; ông là người chỉ huy vừa tối thượng lại vừa cao tay nghề.

Những đêm nước rong, cái đèn măng-sông thời đó là hoàng kim, tôi thu mình vụng về bên đống cá, tôm, cua, trong khi Út Ngọc, con gái út của ông Sáu và những người khác đôi tay thoăn thoắt lựa cá vào cần xé, tôm thì dồn đống xúc vô cần xé đem luộc phơi khô, những chú cua giương hai càng chống trả, vậy mà Út Ngọc bắt trói dễ như chơi.

Là con trai mới lớn, tôi bắt nhịp với việc lựa cá, bắt cua rất nhanh, hết cái thời Út Ngọc nhìn tôi trói cua mà lén cười mủm mỉm. Cũng không nhớ từ lúc nào, chị Nhàn, con dâu thứ ba ông Sáu, đẩy qua đẩy lại để tôi và Út Ngọc ngồi gần nhau. Không như ông Sáu, Út Ngọc vừa người, tóc dài chấm lưng, mắt to, miệng cười rất có duyên, chỉ giống ông Sáu ở nước da bánh mật, nước da của người con gái sông nước, lam lũ, cũng chẳng sao. Không biết các anh trong làng rừng nói với những người trong gia đình điều gì, mà mấy lần sau tôi ra trại đáy thì họ theo dõi tôi rất chặt, riêng chị Nhàn thì như mừng ra mặt. Chúng tôi vẫn ngồi kế bên nhau, nhưng nét vô tư, hồn nhiên của Út Ngọc thì như kín đáo, ý tứ hơn, chỉ mái tóc phất phơ bên hai má tròn thì không sao cất giữ được.

Ðồng khởi năm 1960, bọn tề điệp số bị trừng trị, số chui vào đồn bót, tổ chức tự vệ hương thôn tan rã, nông thôn được giải phóng, từ khu rừng Cái Nháp, cơ quan Huyện uỷ được chuyển về ngọn Kênh Năm, cùng lúc tôi được điều về một cơ quan khác, ở một địa bàn khác. Hết thời khó khăn chồng chất, tiếp xúc với dân chỉ có đêm, bây giờ đi lại ban ngày phơi phới, đêm là lúc tụ tập văn nghệ của tốp thanh niên. Ðêm chia tay, các anh, chị, con, dâu ông Sáu đãi tôi nồi cháo cá khoai nóng hổi, thơm lừng. Út Ngọc vẫn ngồi kế bên tôi, dạn dĩ như tiếc muối, như sắp mất điều gì khó nói. Tôi cũng tỏ ra là người con trai đã lớn, thành thật thương Ngọc, nhưng cũng thành thật chẳng dám nói lời yêu. Nhận chén cháo trên tay Ngọc khẽ chạm vào mấy ngón tay, đơn giản vậy mà sao vẫn nhớ.

Lại chị Nhàn khéo tính, đẩy chúng tôi ra ngoài sân phơi, trăng mười sáu đã nghiêng về Tây, sương đã đẫm ướt lá rừng, chúng tôi đứng lặng thinh, thỉnh thoảng bốn mắt chạm vào nhau. Nói gì bây giờ, lời hẹn ước yêu thương chăng? Tôi không thể làm khổ Ngọc, trong đời, chữ nếu đã là mơ hồ, trong chiến tranh chữ nếu càng mỏng manh hơn. Rạo rực, lâng lâng, tôi kéo đầu Ngọc ngã lên vai mình và vội áp vào má một mùi tóc mới gội, lâng lâng.

Ngày lên đường tôi cố gặp lại Ngọc, từ giã cái liếp lượm sáng đèn đêm, nơi có gần mười con nước rong, tôi “xung phong” có mặt ở đó. Không ai nói ra điều gì, tôi cũng không dám hẹn ngày trở lại. Con nước ròng không cho phép chúng tôi có thời gian dài nhìn nhau, Ngọc mở sợi dây mũi cho xuồng tôi rời đi mà như rưng rưng. Ngọc còn đứng đó bao lâu nữa, có trách sao con nước ròng vội chảy, có chờ con bìm bịp kêu con nước nổi cho xuồng trở về để cột lại sợi dây? Còn tôi, cũng không dám ngoái đầu lại để thấy Ngọc đứng đó và mái chèo cũng chỉ dỡ lên để xuống. Giờ này có ai biết nỗi lòng của chúng tôi, người đi thì cứ đi, người ở lại thì không thể đợi.

Bến Dựa là địa danh của một đoạn sông mà đầu ngoài vàm gọi là Cái Nháp, lên ngọn là Cái Ngay, nước lớn chia năm xẻ bảy lên nguồn, nước ròng chỉ gom lại một dòng ra biển. Tôi và Ngọc chỉ có một dòng sông, nhưng mãi mãi là hai đầu nỗi nhớ./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.