Thứ sáu, 19-9-25 02:13:58
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ði xem chiếu bóng thời chiến

Báo Cà Mau Kể từ ngày 5/8/1964, khi đế quốc Mỹ tiến hành ném bom, bắn phá miền Bắc thì chiến tranh chính thức lan rộng ra cả nước. Cuộc sống hoà bình của người dân nhanh chóng được chuyển qua cuộc sống thời chiến. Hệ thống hầm hào trú ẩn như mạng nhện được thiết lập nơi nơi để mọi người có nơi ẩn nấp an toàn khi gặp máy bay Mỹ đánh phá.

Kể từ ngày 5/8/1964, khi đế quốc Mỹ tiến hành ném bom, bắn phá miền Bắc thì chiến tranh chính thức lan rộng ra cả nước. Cuộc sống hoà bình của người dân nhanh chóng được chuyển qua cuộc sống thời chiến. Hệ thống hầm hào trú ẩn như mạng nhện được thiết lập nơi nơi để mọi người có nơi ẩn nấp an toàn khi gặp máy bay Mỹ đánh phá.

Do hoàn cảnh chiến tranh, mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần đều bị hạn chế. Trong đó, việc xem được một bộ phim hay một tối biểu diễn của các đoàn văn công là niềm hạnh phúc khó quên. Thông thường, người dân quê tôi mỗi tháng được xem phim một vài lần và khâu chuẩn bị hết sức công phu, vất vả… Ngoài ra, thỉnh thoảng được “coi ké” vài lần các đoàn văn công phục vụ công nhân nhà máy điện; đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn.

Công đoạn chuẩn bị chiếu phim trong thời chiến tranh chống Mỹ.         Ảnh tư liệu

Khi có đội chiếu bóng sắp về phục vụ, toàn xã được báo trước ba, bốn ngày (có khi trước cả tuần) là sẽ có đội chiếu bóng về phục vụ và địa điểm chiếu ở đâu. Ðối với người dân nông thôn thời ấy, chiếu bóng là một “sự kiện” lớn nên nhà nhà nô nức chuẩn bị đi xem. Bọn nhỏ chúng tôi nôn nao tính từng ngày và phải tự giác học bài, làm bài tập, bài soạn (môn Văn phải tự soạn bài theo câu hỏi trong sách giáo khoa) xong đâu vào đó trước vài ngày. Các anh chị thanh niên thì khỏi phải nói, niềm vui xen lẫn sự hồi hộp vì đây là cơ hội “ngàn năm có một” được hò hẹn, gặp gỡ nhau. Tôi nhớ chị tôi nấu một nồi nước lá bưởi, lá chanh để gội đầu cho thơm… Các cụ già cũng hăng hái “tham gia” xem phim cùng con cháu với suy nghĩ “mấy đời mấy thuở mới có…”.

Vé vào sân bãi xem phim là một hào đối với người lớn; trẻ em dưới mười lăm tuổi là năm xu. Chúng tôi xin tiền mẹ và ra vườn rọc lá chuối khô mang đi để lót chỗ ngồi trên cỏ. Phía gần màn ảnh là các em nhỏ thiếu niên, nhi đồng giành nhau chỗ ngồi tốt. Kế theo là người lớn tuổi. Các anh chị thanh niên hầu như chẳng chịu ngồi một chỗ mà đứng tụm năm tụm ba từng tốp phía hai bên hoặc phía sau phòng chiếu; chọc ghẹo nhau, cười nói vang trời…

Ðịa phương phối hợp cùng nhân viên đoàn chiếu phim hôm trước đã tìm được nơi có tán cây rộng có độ che phủ ánh sáng tốt. Màn ảnh rộng được dựng lên bởi khung tre hình chữ nhật được cột dây kéo căng bốn phía đề phòng gió thổi làm bung màn ảnh thì mệt. Hai miếng vải xanh dài khoảng hơn mười thước, rộng khoảng hai thước được kéo che hai bên, hạn chế tối đa ánh sáng lọt ra ngoài. Cách màn ảnh hơn mười thước là phòng chiếu.

Ðội chiếu phim lưu động có khoảng sáu người. Một tổ trưởng phụ trách chung; một phụ trách máy nổ; một phụ trách thuyết minh, một phụ trách vận hành máy chiếu và vài người còn lại lo việc “hậu cần” phía sau. Ðịa phương cử dân quân canh gác máy bay ở vòng ngoài; khi có tiếng máy bay thì báo động cho phim ngừng chiếu ngay. Có những lần đang hồi hội theo dõi tình tiết gay cấn thì có tiếng kẻng báo động có máy bay. Máy chiếu phụt tắt. Cả sân bãi nhốn nháo bởi tiếng kêu í ới gọi nhau. Nhưng một lúc sau, tiếng máy bay xa dần và phim lại tiếp tục chiếu…

Ðến giờ chiếu, tất cả bóng đèn đều phụt tắt và tất cả đều im lặng, chỉ còn nghe tiếng máy quay xè xè. Trên màn ảnh xuất hiện dòng chữ “Phim tài liệu” và tựa phim hiện ra “Sâu gai hại lúa và cách phòng trừ”. Thông thường là vậy, có khoảng mười lăm phút phim tài liệu, phổ biến kiến thức khoa học “khởi động” hoặc phim hoạt hình phục vụ thiếu nhi trước.

Có lần chiếu bộ phim hoạt hình về du kích miền Nam đánh giặc bằng ong vò vẽ… Ðám lính đi càn đụng ngay “trận địa” ong vò vẽ, các anh du kính giật dây cho ong bay ra. Cả đám chạy tán loạn; ong đuổi theo đốt khiến chúng kêu la rần trời. Ðến cảnh tên lính Mỹ cuống cuồng nhảy xuống ao tránh ong đốt lại gặp ngay con đỉa to gần bằng... bắp tay lao tới bám vào ngực. Nó hét lên thất thanh: “Ê con đỉa ! Con đỉa” rồi ngã ngửa xuống nước, miệng uống nước ùng ục.

Ðám thiếu niên ngồi trước lố nhố đứng lên, vỗ tay liên hồi, la hét rần rần khoái chí khiến đội trật tự phải nhắc các em ngồi xuống cho người phía sau xem… Hoặc những bộ phim hoạt hình khác như “Nàng công chúa Cóc”, “Chú mèo đi hia”… cũng khá hấp dẫn tuổi nhỏ.

Hết phim tài liệu, hoạt hình là tới phim chính. Ðó là những bộ phim của điện ảnh Việt Nam trong chiến tranh như “Con chim vành khuyên” hoặc “Chung một dòng sông” rồi phim “Chị Tư Hậu” đến “Vĩ tuyến 17 - ngày và đêm”, rồi “Vợ chồng A Phủ”, “Mỗi bước anh đi”, “Nguyễn Văn Trỗi”, “Rừng xà nu”, “Tiền tuyến gọi”… Bên cạnh đó là những bộ phim chiến đấu của Liên Xô như “Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn”… Phim “Lôi Phong” của Trung Quốc (tôi còn nhớ những câu thơ về nhân vật này: Với đồng chí ấm áp như mùa xuân/Với việc công cháy nồng như nắng hạ/Với chủ nghĩa cá nhân như gió mùa thu quét lá/Với quân thù như băng giá đêm đông).

Thỉnh thoảng phim đang chiếu thì gặp sự cố là phim bị đứt. Lúc ấy, anh thợ máy bình tĩnh nối lại và lắp phim vào để tiếp tục chiếu.

Những đêm coi phim cách xa nhà cả bảy, tám cây số; chúng tôi phải tranh thủ ăn cơm sớm rồi “khởi hành” từng tốp lớn, nhỏ đi bộ từ khi mặt trời còn lấp ló xuống chân trời sau rặng cây xa xa bên kia sông. Ðường lên xã bạn phía trên phải qua một cây cầu từng bị đánh bom. Những quả bom nổ chậm (đã được công binh tháo ngòi nổ) nằm lăn lóc bên đường như đàn heo đang ngủ... Qua những chỗ này, chúng tôi thi nhau chạy thật nhanh, càng xa càng tốt.

Xong buổi chiếu phim, mọi người lục tục kéo nhau ra về. Lại hình thành từng tốp; nhỏ đi theo nhỏ, lớn đi theo lớn. Tốp thiếu nhi luôn vượt lên trước một cách hăng hái. Thỉnh thoảng một vài đứa lớn lém lỉnh vọt lên, trốn trong lùm cây; đợi mấy đứa đi đầu tới nơi thì nhảy ra nhát ma khiến mấy đứa con gái kêu thất thanh…

Tốp các anh chị thanh niên thì hình như chẳng vội vàng gì, cứ đi thong thả; vừa đi vừa nói chuyện, chọc ghẹo nhau rồi cười vang giữa đêm trên đường quê. Có những tốp thì vừa đi vừa bình luận, nhận xét về nhân vật này nhân vật khác thật rôm rả… Thích nhất là những đêm trăng sáng, nhìn ra cánh đồng như được dát bạc trong sương. Có những lúc thanh bình giữa thời chiến như thế. Giờ này tiếng máy bay chẳng còn, mấy bậc cao niên nói rằng chắc bọn phi công cũng đã đi ngủ (!).

Những bộ phim được xem hồi ấy đã mở tầm nhìn cho chúng tôi, những đứa trẻ miền quê chỉ biết chạy nhảy trong luỹ tre làng. Ðó là những con người dũng cảm, thật sự mưu trí như hình ảnh một chiến sĩ Hồng quân nối đường dây điện thoại giữa làn đạn kẻ thù. Dây điện thiếu một gang tay thôi, tưởng chừng liên lạc sẽ bị đứt vì không thể tìm ra dây điện thoại lúc nguy cấp này. Anh đã cắn chặt hai đầu dây, lấy thân mình cho đường điện truyền qua được thông suốt.

Bên cạnh đó là hình ảnh đau thương của đồng bào miền Nam ruột thịt chịu cảnh bom rơi đạn nổ, nhà cháy; mất ruộng mất vườn; cảnh chết chóc đầy oán hờn… Và hình ảnh của miền Nam vùng lên trong những bộ phim hừng hực hơi thở chiến trường với khúc mở đầu hùng tráng: “Vùng lên Nhân dân miền Nam anh hùng/Vùng lên xông pha vượt qua bão bùng/Thề cứu lấy nước nhà/Thề hy sinh đến cùng/Cầm gươm, ôm súng xông tới…”.

Những bộ phim thời chiến còn giúp chúng tôi biết cảm thông, chia sẻ với mọi người. Hình như điện ảnh tác động nhanh hơn các loại hình nghệ thuật khác. Hồi ấy, phim nói gì thì mọi người tin ngay vì hình ảnh trong phim rất chân thực như ngoài đời. Có một thời phim “hay, chân thực”, lay động lòng người như thế. Phải chăng, trong thời buổi chiến tranh thuở ấy, con người sống với nhau thật hơn, tình cảm hơn, tình nghĩa hơn?

Xem chiếu bóng thời chiến thật vui và thật cảm thông, thật thương cho một thế hệ sống trong cảnh chiến tranh mà phải chịu đựng bao thiếu thốn về tinh thần. Bù lại, đó cũng là một thời thật hào hùng không bao giờ quên được./.

Lê Ðức Ðồng

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.