Thứ sáu, 19-12-25 11:06:27
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ðoàn Phương Ðông - Vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu

Báo Cà Mau Trước tình hình Mỹ - Diệm ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam với nhiều thủ đoạn dã man, tàn bạo, gây bao đau thương tang tóc cho quê nhà, nhiều cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc lòng sôi sục căm thù, quyết tâm tham gia cùng các đoàn trở về quê hương chiến đấu, trong đó có Ðoàn Phương Ðông với quân số lên đến gần 600 người.

Hành trình về nam chiến đấu

Lực lượng quân sự khi tập kết ra Bắc, một số được đi học văn hoá, đào tạo cán bộ ở các trường trong và ngoài quân đội, số còn lại tập trung huấn luyện, xây dựng quân đội chính quy, lao động sản xuất... góp phần cùng miền Bắc xây dựng hậu phương vững mạnh.

Với ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị thành lập binh đoàn mở đường Trường Sơn (Ðoàn 559) để chi viện cho chiến trường miền Nam. Ðoàn có nhiệm vụ mở con đường mòn gùi thồ, hành quân bộ (về sau phát triển thêm đường cơ giới), đó chính là con đường Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, con đường giao thông huyết mạch góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Bộ đội vượt Trường Sơn. Ảnh tư liệu

Cuối năm 1959, khi đường Trường Sơn được khai thông, Ðảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng bắt đầu chỉ đạo thành lập và đưa các đoàn cán bộ quân sự là con em miền Nam tập kết ra Bắc về tăng cường cho cách mạng miền Nam. Ban đầu là những đoàn nhỏ, số lượng vài chục đến vài trăm người. Ngày 7/5/1961, đoàn cán bộ quân sự có số lượng lớn đầu tiên với gần 600 người mang tên Ðoàn Phương Ðông đã lên đường về Nam chiến đấu.

Ðoàn Phương Ðông lên đường vào Nam được biên chế thành khung của các cơ quan quân sự Miền; khung các đơn vị binh chủng pháo binh, đặc công, công binh, thông tin...; khung các Bộ Tư lệnh Quân khu 8, Quân khu 9 và khung các trung đoàn chủ lực Miền. Từ đó góp phần xây dựng lực lượng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại và ngày càng lớn mạnh, lập nên nhiều chiến công lớn, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu cùng với lý tưởng cách mạng và tiếng gọi quê hương, những người lính tập kết trở về đã chịu đựng biết bao gian khổ, hiểm nguy. Kết thúc chiến tranh, trong số cán bộ quân sự Ðoàn Phương Ðông ngày nào, có 57 người hy sinh; 5 Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân; 11 người mang hàm cấp tướng, đảm nhận các chức vụ từ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đến các Tư lệnh phó Tư lệnh Quân khu 8 và Quân khu 9; hàng trăm người cấp tá, cấp uý, hàng chục người trở thành cán bộ chủ chốt trong các cơ quan dân chính đảng ở các địa phương đồng bằng sông Cửu Long.

Và câu chuyện tình yêu người lính Phương Đông

Qua giới thiệu, một ngày tháng 9, tôi đến ấp Tân Bằng, xã Tân Bằng, huyện Thới Bình, gặp bà Trần Thị Hoà, đầu mối chính của bài viết.

Trước mặt tôi là 2 quyển sách có tên: “Những kỷ niệm sâu sắc của Ðoàn Phương Ðông miền Trung và Tây Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Bộ Tư lệnh Quân khu 9 và “Những truyện ngắn thông tin liên lạc Quân khu 9 - 30 năm kháng chiến” của Ban Liên lạc Cựu chiến binh Thông tin Quân khu 9. Kẹp trong quyển sách là lá thư của Ðại tá Nguyễn Thông (Ba Kế), Phó ban Liên lạc Ðoàn Phương Ðông miền Tây Nam Bộ. Thư ghi: “Kính gửi đồng chí Ba Hoà (vợ đồng chí Ba Danh)” kèm theo địa chỉ. Lá thư được đánh máy, nội dung thư, nhân dịp xuất bản quyển sách “Những kỷ niệm sâu sắc của Ðoàn Phương Ðông miền Trung và Tây Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Ban Liên lạc Ðoàn Phương Ðông tổ chức buổi họp mặt (năm 2005), có mời tất cả cựu chiến binh của đoàn và gia đình các đồng chí trong đoàn đã hy sinh về dự. Nhưng tiếc là không thấy có mặt bà Hoà, nên gửi thư thăm hỏi, kèm theo gửi biếu quyển sách. Cuối thư, còn có phần tái bút với chữ viết tay: “Ðược thơ, chị Ba cho biết tình hình gia đình. Lâu quá không được tin chị và các cháu”.

Bà Trần Thị Hoà bồi hồi kể câu chuyện tình yêu của mình với người chồng là cán bộ tập kết Ðoàn Phương Ðông.

Bà Trần Thị Hoà (Ba Hoà) năm nay đã ở tuổi 86, người mảnh khảnh, sức khoẻ còn tốt, giọng từ tốn, đặc biệt đầu óc bà còn rất minh mẫn. Bà cho biết, chồng bà là ông Trần Danh, quê Bến Tre, nhập ngũ năm 1948 ở Tiểu đoàn 306; là bộ đội tập kết, tham gia trong Ðoàn Phương Ðông về Nam năm 1961. Ông được phân công công tác ở Ban Thông tin Quân khu 9, chức vụ Ðại đội trưởng, hoạt động địa bàn từ U Minh Thượng (Kiên Giang) đến Sông Trẹm, Cái Tàu...

Ông và bà quen nhau năm 1962, khi đó bà là Bí thư Chi bộ Ấp 6 La Cua, xã Biển Bạch (nay gồm Biển Bạch Ðông, Biển Bạch, Tân Bằng). Năm 1963, hai người thành hôn.

“Anh bận làm nhiệm vụ suốt, lâu lâu trên đường đi công tác thì ghé ngang thăm nhà. Có khi ở được 1-2 bữa, có khi chiều ghé ngủ rồi sáng lại đi. Sau khi sinh con đầu lòng, tôi là Xã uỷ viên, công tác nhiều hơn trước, có khi chồng về cũng không gặp”, bà nhắc về chồng bằng tình cảm yêu thương, trìu mến. Cũng giọng đầy xúc động, bà kể tiếp: “Anh hiền lắm, thiệt tình lắm, đối với gia đình, bạn bè rất tốt, vui vẻ, hoà đồng. Toàn bộ gia đình bên tôi, ai cũng thương ảnh. Anh cũng quan tâm, lo cho tôi dữ lắm. Chuyện công tác của tôi, anh bảo cứ làm được gì thì làm, tuỳ tôi, chứ không hề can ngăn, hay khuyên nghỉ, mặc dù có nhiều lần anh về, tôi bận công tác, vợ chồng chẳng gặp được nhau...”.

Chồng lo công tác, một mình bà vừa nuôi con vừa làm nhiệm vụ cơ sở rất vất vả, nhưng đó là do bà lựa chọn nên luôn cố gắng khắc phục để vượt qua. Bà kể, lúc ấy Nhà thơ, Nhà báo Nguyễn Hải Tùng có làm bài thơ về bà đăng trên báo, giờ bà còn nhớ được mấy câu:

“Hình ảnh Ba Hoà Xã uỷ viên

Cũng là người mẹ dịu hiền...

...

Bồng con đi họp lội ngang cánh đồng”.

Lấy nhau 4 năm, gặp nhau, sống cùng nhau cộng lại không được mấy tháng thì năm 1967,  chồng bà hy sinh.

Lúc đó con gái lớn 3 tuổi, con trai nhỏ mới sinh 4 tháng, nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn lao nhưng bà vẫn kiên cường không quỵ ngã. Một mình vừa tham gia công tác cách mạng, vừa nuôi con, lại gánh nỗi đau lớn trong đời, bà tự nhủ lòng phải mạnh mẽ gấp đôi.

“Lúc đó ở xứ này có biết bao gia đình bị giặc giết, có gia đình 2-3 người, có gia đình 4-5 người. Như gia đình ông Nguyễn Phúc Ánh cùng xóm này, bị giặc giết 5 người con, chôn 5 ngôi mộ song song. Về sau ông bị thần kinh rồi mất. Gia đình tôi, ba công tác ở Quân khu 9, mẹ làm trong Tổ Ðảng, đã hy sinh; 4 chị em gái đều lấy chồng bộ đội, 3 người có chồng hy sinh. Lúc đó căm thù thì ai cũng căm thù. Không đi làm cách mạng cũng chưa hẳn sống, mình đi có chết nhưng cũng góp công sức để giải phóng quê hương”, bà giãi bày.

Ðất nước độc lập là niềm vui lớn, nhưng bên cạnh đó, cuộc sống vẫn lắm bộn bề gian khó. Bà lại tiếp tục vừa công tác vừa nuôi con. Năm 1980, bà là Bí thư Ðảng uỷ xã Biển Bạch. Năm 1991, bà nghỉ hưu.

“Hồi đó Chủ tịch, Bí thư xã không có lương. Vừa tham gia công tác vừa làm ruộng, chăn nuôi để có tiền lo cho gia đình. Vất vả vô cùng. Ði công tác vận động sản xuất, vận động bảo vệ Tổ quốc... phải lội bộ đến từng nhà. Những lúc hội nghị ở huyện mấy ngày, khuya là dậy cho heo ăn, 5 giờ chèo xuồng ra tới huyện dự họp; chiều chèo về, hôm sau lại đi... Thời khó khăn đó, một số đảng viên nam, nữ không cầm cự nổi đã nghỉ, tôi thì vẫn đeo đuổi. Tôi nghĩ, thời chiến tranh giặc giã, khó khăn cỡ nào còn trụ được, giờ phải kiên trì... Phải nối tiếp truyền thống cách mạng gia đình”, bà tâm tình.

Trải qua thời chiến tranh, với bao đạn bom, bao đau thương lấp đầy tuổi trẻ, tấm Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 64 năm tuổi Ðảng, con cái cũng được học hành, chữ nghĩa đàng hoàng, với bà như vậy cũng thấy bằng lòng. Và cái giá lớn nhất là được hưởng cuộc sống thanh bình, không còn đạn lạc, bom rơi.

Ông Ba Kế và rất nhiều người lính Ðoàn Phương Ðông ngày nào, bây giờ đã về với đất. Và dĩ nhiên còn rất nhiều câu chuyện tình yêu, chuyện gia đình của những người lính Ðoàn Phương Ðông chưa được kể. Câu chuyện của ông bà Hoà nghe qua cũng bình thường, nhưng đằng sau đó, đọng lại những điều thật ý nghĩa về tình yêu và sự trở về quê hương chiến đấu của người lính; về nghị lực phi thường của người mẹ, người vợ trong nỗi mất mát đau thương bởi bom đạn chiến tranh. Ở đó còn có cái nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt, có niềm tin vào ngày mai tươi sáng, có tình đồng chí, đồng đội một thời luôn ấm áp, yêu thương./.

 

Huyền Anh

 

Khởi nghĩa Hòn Khoai - Biểu tượng anh hùng bất tử

Cách đây 85 năm, tại Hòn Khoai - đảo tiền tiêu phía Tây Nam Tổ quốc, diễn ra sự kiện lịch sử lừng lẫy: cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai, do Anh hùng Phan Ngọc Hiển lãnh đạo ngày 13/12/1940 giành toàn thắng.

Nhớ mái trường thời chiến

Giữa năm 1967, tôi được địa phương chọn đưa đi học Trường Bổ túc văn hoá tu nghiệp sư phạm huyện Trần Văn Thời, đào tạo giáo viên cho cơ sở.

Nghĩa tình son sắt, vượt thời gian

Mối quan hệ kết nghĩa giữa Ninh Bình (miền Bắc hậu phương) và Bạc Liêu (miền Nam tiền tuyến, nay là tỉnh Cà Mau) là biểu tượng mẫu mực của tình đoàn kết Bắc - Nam, hưởng ứng phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh do Trung ương Ðảng phát động năm 1960. Vượt qua khoảng cách địa lý, tình nghĩa keo sơn này được hun đúc và phát triển bền vững từ những năm tháng kháng chiến đến ngày nay.

Treo cờ dụ địch

Hướng tới ngày kỷ niệm Chiến thắng Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là (23/11/1963), tôi xin viết lại câu chuyện treo cờ dụ địch, ghi theo lời kể của đồng chí Châu Thái Biết, nguyên Tiểu đội trưởng Trinh sát đặc công, Tiểu đoàn 306 anh hùng (đã mất cách đây gần 3 năm), như sự tri ân những người trực tiếp làm nên chiến công bất tử trên mảnh đất Cà Mau giàu truyền thống cách mạng.

Thương về đồng đội

Những ngày tháng 10, mưa giăng đầy trời, lòng người cũng thường hoài niệm về quá khứ. Đội Văn nghệ Thị đội Cà Mau năm xưa, những cựu chiến binh tuổi quá lục tuần lại quây quần bên nhau cùng hát, múa, tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh.

Chiếc khăn rằn của má Út Bình 

Bằng duyên may lớn, tôi đã gặp được bà Nguyễn Thị Bình, bí danh Út Bình - “Bà má Chính uỷ”, tại căn nhà người thân của bà ở phường An Xuyên. 99 tuổi đời, 77 năm tuổi Đảng, bà Út Bình là tấm gương ngời sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đức hy sinh cao cả và tấm lòng người phụ nữ Nam Bộ nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung.

Nhớ năm tháng ấy

Hồi đó, tôi trốn nhà đi Thanh niên xung phong chớ ba má tôi đâu có cho. Tôi lên Xã đoàn Phong Lạc, gia đình đi theo lên kiếm bắt về. Lúc đó tôi đang ở nhà anh Lự, nghe ba má tôi lên kiếm, tôi chui vô rẫy mía trốn. Anh Hai, anh Sáu của tôi hy sinh năm 1970. Anh Ba tôi, tức anh Ba Phú, lúc đó đang công tác ở Huyện đoàn Cái Nước cho nên nhà đâu còn ai, tôi đi Thanh niên xung phong năm đó mới có 15 tuổi hà, ba má cưng tôi lắm!

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...