Thứ năm, 18-9-25 20:28:56
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Dọc chiều dài kinh Chống Mỹ

Báo Cà Mau Kinh Chống Mỹ ở xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, được đào bằng sức người, phục vụ kháng chiến từ thời chống Pháp vào năm 1949-1950, chiều dài gần 6 km, từ kinh Ðòn Dong, qua cuối Kinh Tư, qua đầu kênh Sáu Thước, xuyên qua Hào Sai, Ðộc Lập, Trảng Cò, Kinh Cũ, xuyên bờ Bắc Kinh Cũ ra tới xóm Kinh Cùng...

Giữa năm 1974, trong một chuyến đi xuồng chèo từ ngã tư Giáp Nước qua Nghĩa trang Cầu Ván, ra kinh Chống Mỹ ở xã Tân Hưng Ðông, huyện Cái Nước, Nhà thơ Nguyễn Bá nói vui: "Hễ đi hết kinh Chống Mỹ, thì về nghĩa trang...".

Ai cũng biết, không có cuộc kháng chiến nào tránh khỏi sự hy sinh, mất mát. Kinh Chống Mỹ ở đây, tới Kinh Cũ chèo thẳng trở ra là tới Rạch Ráng, còn trở vô hơn một cây số là tới Nghĩa trang xã Trần Hợi, góc ngã tư Quảng Hảo.

Suốt những năm kháng chiến, từ khó khăn, gian khổ cho đến lúc cực kỳ ác liệt, tôi vẫn lau lách hết con kinh này qua con kinh khác; từng cơ động tránh giặc ngày đêm lên xuống dọc dài kinh Chống Mỹ không biết bao nhiêu lần, qua khắp các dòng kinh quen thuộc, bám trụ sống ở quê hương Trần Hợi thời chiến tranh...

Kinh Chống Mỹ, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời hôm nay. Ảnh: NHẬT MINH

Năm 2015, tôi về tìm những kỷ niệm, thôi thúc đôi chân muốn thử sức đi bộ dọc chiều dài kinh Chống Mỹ. Thời chiến đi xuồng, thời bình cuốc bộ... Tôi đi dài theo con lộ bê tông giao thông nông thôn từ xóm cuối Kinh Tư - giáp xóm đầu kinh Ðòn Dong, qua chiếc cầu bê tông cao nghệu cuối Kinh Tư, xuống dốc là con lộ bê tông 1 mét bên bờ Bắc kinh Chống Mỹ, qua ngang đầu kinh Sáu Thước, đi tới ngã tư Hào Sai... Tôi bước qua cầu, ghé nhà chị Ba Nhủ. Tôi nói, tính đi nữa mà hết lộ bê tông rồi. Tôi nhờ cháu Minh con trai của chị Ba đưa tôi giang xuồng qua kinh Ðộc Lập. Cháu Minh sẵn sàng giúp cậu ngay.

Tôi xuống chiếc xuồng be bảy, ngồi trước, cháu Minh ngồi sau cầm cây dầm bơi, chiếc xuồng lướt nhẹ khá nhanh. Hai bờ kinh Chống Mỹ đoạn Hào Sai qua Ðộc Lập vẫn còn hai hàng cây trâm bầu, dâm bụt như cảnh thời chiến. Dây đất ruộng của chị Ba ở góc bờ ngã tư Hào Sai cặp bờ kinh Chống Mỹ ra tới hậu đất giáp với dây đất ruộng của bác Mười Tân ngay hậu kinh Ðộc Lập giáp hậu kinh Hào Sai.

Cháu Minh cặp xuồng vào bến. Tôi bước lên bờ kinh Ðộc Lập, phía trước nhà bác Mười Tân trong khu vườn dừa. Vợ chồng bác Mười là người Bến Tre, sống ở đây suốt thời kháng chiến, không có con. Bác trai sinh năm 1916, quê An Hoá, Châu Thành, Bến Tre; tham gia cách mạng tháng 8/1945, vào Ðảng ngày 19/8/1948. Kháng chiến chống Pháp ở Bến Tre, vào đây tiếp tục công tác ở xã Trần Hợi thời đánh Mỹ. Sau giải phóng (30/4/1975) hàng chục năm, bác Mười trai trở về quê cũ và qua đời ở An Hoá. Bác Mười gái sống trong này, đã qua đời, nằm lại đất nhà ở đầu kinh Ðộc Lập, bên hông kinh Chống Mỹ này.

Cháu Minh cho tôi biết, ngôi nhà của bác Mười bây giờ do một đứa con của anh Tám Vững - nhà đối diện bên bờ kinh Chống Mỹ, quản lý, chăm sóc phần mộ và thờ cúng bác Mười gái. Hoàn cảnh hai bác, cuối đời mỗi người một ngã mà buồn!

Tôi bước qua cầu bê tông bắc ngang kinh Ðộc Lập, xuống dốc bên tay trái bước tới là bờ kinh Chống Mỹ. Ðây là bờ kinh, bờ dừa cao vọi, thành vườn lâu năm. Khi đến trước ngôi nhà, tôi dừng lại, không còn đường mòn nữa. Tôi nhìn vào ngôi nhà. Cô chủ nhà chỉ tay ra dấu cho tôi bước qua cầu trước nhà, sang bờ phải. Qua bên này, tôi lội vào cụm tràm rậm, sậy cỏ phủ bịt bùng...

Tôi lội vòng vô, rồi lại tìm hướng tạt ra bên trái, ra khỏi cụm tràm. Kinh Chống Mỹ đoạn này, người ta san lấp bằng phẳng, lên liếp trồng hoa màu, ớt sừng, các loại rau thơm, húng quế xanh tốt...

Tận mắt đoạn kinh Chống Mỹ này, khi về, tôi có ra Cà Mau, gặp anh Mười - Nhà văn Nguyễn Thanh, tôi kể cho anh nghe sốt dẻo:

- Bây giờ bà con Trần Hợi đã lấp gần hết kinh Chống Mỹ rồi... Người ta không cần chống Mỹ nữa, anh Mười ơi!

Nghe chuyện lạ, anh Mười bật cười “khặc khặc”...

Cái miếu giữa đồng

Qua chiếc cầu bê tông nhỏ bắc ngang kinh Trảng Cò, bước xuống bờ đất kinh Chống Mỹ, đi dài ra ruộng trống, tới hậu đất kinh Trảng Cò, giáp hậu đất Kinh Cũ, gặp cái miếu ngay góc cánh chỏ kinh Chống Mỹ, phía Kinh Cũ ra giữa đồng này.

Cái miếu nhỏ ở giữa đồng này là để nhớ một vụ 4 người bị thiệt mạng đã xảy ra kinh hoàng vào ban đêm tại đây!

Sau tết Mậu Thân 1968, thằng Ðởm ở Kinh Cũ, đoạn gần kinh Chống Mỹ, bị phân hoá, dao động... Hôm ấy, vào buổi tối ngày 24, tháng Giêng, năm Mậu Thân, sau khi lớn tiếng gây sự với Tư A trong xóm, thằng Ðởm đi xuồng ra gặp anh Sáu Quý, cán bộ Ấp đội Kinh Cũ, đang ở căn chòi trên bờ chuối phủ kín - ngay cánh chỏ bờ kinh Chống Mỹ phía Trảng Cò qua. Thấy thằng Ðởm có vẻ hung hăng, anh Bảy Luông, anh Ba Chí, cán bộ An ninh ấp Kinh Cũ, bơi xuồng theo Ðởm. Ra tới chòi, thằng Ðởm lè nhè kêu anh Sáu Quý ra nói chuyện.

Lúc này, anh Bảy Luông, anh Ba Chí cũng vừa bơi xuồng tới, cặp vào bờ, không ai biết trong tay thằng Ðởm đang cầm trái lựu đạn MK6 của Mỹ. Nó sân si, lớn tiếng, chờ đủ mặt anh em tập trung lại, nó rút chốt, trái lựu đạn xoè ra nổ, làm chết một lượt cả 4 người, kể cả thủ phạm là thằng Ðởm - con ông Tám Tháo ở Kinh Cũ.

Nơi đây, bây giờ mọc lên ngôi nhà lớn trên miếng ruộng hậu Kinh Cũ, quay cửa ra hậu Trảng Cò - nơi xảy ra vụ án mạng chết 4 người. Cái miếu nhỏ dời qua góc bờ kinh Chống Mỹ, phía Kinh Cũ ra.

Tôi đi trên bờ kinh Chống Mỹ bên phải, đã san lấp, lòng kinh nhỏ như con mương ranh trên ruộng. Gặp khúc đứt ngang bờ, không nhảy qua được, tôi phải bước xuống, nước sâu tới háng mà lội qua...

Xóm kinh cùng

Từ ngoài ruộng lội vào, lên con lộ bờ Nam Kinh Cũ ở góc bờ kinh Chống Mỹ - nhà ông Tư Năng cũ, nhìn đối diện bên kia bờ Bắc Kinh Cũ là con kinh nhỏ - kinh Chống Mỹ. Thấy một cô gái dáng nhỏ người đang bơi xuồng bên đó, tôi réo nhờ cho tôi quá giang qua Kinh Cũ và đưa tôi vào xóm Kinh Cùng. Ngọn kinh Chống Mỹ vô tới đây là cùng, không trổ qua kinh Chủ Kịch.

Thời chiến, mùa thu 1969, gian khổ, ác liệt, chúng tôi bám trụ ở đây, hậu đất ông Trần Phinh, bên Kinh Cũ, giáp ranh đất ông Ba Gà Mổ, ông Ba Lúa hậu kinh Chủ Kịch, nay là Kinh Chùa; dựa vào địa hình cây cối, là nơi tiếp giáp vùng đất trấp. Hai căn chòi nhỏ tạm dựng lên có nhà vợ chồng anh Sáu Quang, tôi với anh Ba Hùng, Phó ban Tuyên huấn xã Trần Hợi, ở nhà anh Tư Lộc, người Bến Tre, đi tập kết trở về địa phương này.

Suốt mấy ngày ở đây, sáng, trưa nghe tiếng tàu sắt ngoài Sông Ðốc rền rú không ngớt... Lại cứ nhìn chiếc “cần cẩu” tha pháo, tha đạn kình kình xuống Rạch Ráng liên hồi. Tình hình giặc diễn biến nhanh chóng. Cảm giác hụt hẫng, tôi réo anh Sáu Quang ra coi:

- Giặc bắt đầu tái chiếm Rạch Ráng, chúng lập chi khu - quận lỵ Sông Ðốc một lần nữa, anh Sáu ơi!

Chúng tôi cơ động, chỉ còn anh Tư Lộc và vợ chồng anh Sáu Quang ở đây. Sau chú Tư Nhỏ, anh Tư Lộc làm Bí thư Chi bộ ấp Kinh Cũ. Năm 1970, vợ chồng anh Sáu Quang tản xuống kinh Hào Sai và đã chạy ra thành... Năm 1971, giặc lấn chiếm đóng đồn kinh Chống Mỹ - Kinh Cũ, ngay góc đất ông Tư Năng...

Sau giải phóng 30/4/1975, anh Tư Lộc có vợ miệt dưới ngã tư Chín Bộ và đã qua đời ở Kinh Tám, xã Khánh Bình Tây.

Từ hai căn nhà nhỏ mọc lên đây thời chiến, sau giải phóng, bắt đầu từ năm 1976, Nhà nước, địa phương đã cấp đất cho nhiều hộ dân vào đây sinh sống.

Mùa thu 1969, xóm Kinh Cùng là đồng trống, nhìn ra Rạch Ráng lồng lộng. Một bờ trâm bầu lưa thưa. Một dây đìa lưa thưa trâm bầu. Ðồng ruộng mênh mông... Hồi ấy, tôi có nghĩ, nếu máy bay trực thăng Mỹ, loại vũ trang hoặc “cá nhái” nhảy cóc xuống đây, là không có một lùm cây, không một chỗ ẩn núp, con người chỉ có chết hoặc bị bắt, chứ không phương nào thoát khỏi tay giặc.

Và, gần 50 năm sau ngày giải phóng, tôi trở về mảnh đất Trần Hợi anh hùng, tìm trong ký ức kỷ niệm, bằng thử sức chuyến cuốc bộ dọc chiều dài kinh Chống Mỹ trên quê hương thứ hai này./.

 

Nguyễn Minh

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.