Thứ năm, 18-9-25 17:49:22
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

Kỷ niệm về anh

Báo Cà Mau Sau ngày đất nước toàn thắng và thống nhất, tôi từ miền Trung được chuyển về quê công tác. Mấy ngày ngồi trên xe đò từ Cố đô Huế trở về, trong đầu tôi hình dung biết bao hình ảnh về sự đổi thay của thị xã Cà Mau mà ngày tôi ra đi hơn 20 năm trước còn là một thị trấn khiêm tốn nằm ở tận cùng phương Nam Tổ quốc.

TP Cà Mau phát triển rạng rỡ sau 50 năm đất nước độc lập, thống nhất. Ảnh: NHẬT MINH

TP Cà Mau phát triển rạng rỡ sau 50 năm đất nước độc lập, thống nhất. Ảnh: NHẬT MINH

Ðến khi đặt chân xuống thị xã quê hương, tôi thật sự ngỡ ngàng. Cà Mau không như tôi nghĩ, mà được mở rộng rất nhiều. Phía bên dãy phố chợ duy nhất ngày xưa, bây giờ có thêm phố dọc, phố ngang sầm uất, đông vui không kém bất cứ một thị xã nào từ Bắc vào Nam. Khu vực sân banh, năm 1941, thực dân Pháp xử bắn Phan Ngọc Hiển và các đồng chí của anh, đã mọc lên nhiều ngôi nhà cao tầng đồ sộ. Phía bên kia sông qua Cầu Quay, ngày trước chỉ có con đường lộ đá từ Bạc Liêu đi xuống, còn lại là bãi đất rộng lau sậy lơ thơ với mấy túp nhà lá đơn sơ và mấy con đường hẹp, nay là những đường phố rộng với bệnh viện, căn cứ Tiểu khu, Toà hành chánh (UBND tỉnh bây giờ), dinh Tỉnh trưởng (nay là trụ sở Tỉnh uỷ), các công sở, khu dân cư, tịnh xá Phật giáo, thánh thất Cao Ðài, nhà thờ Thiên Chúa giáo... Dấu vết của một thị trấn nhỏ Cà Mau năm xưa không còn lại mấy so với lúc tôi cùng đồng đội giã biệt nơi này ra đi.

Vào một chiều, tôi đi dạo trên mấy đường phố chính còn rợp bóng cờ sao. Tại đầu đường, nơi ngã năm Cầu Mới đổ về phía Quốc lộ 4 (nay là Quốc lộ 1) đi Bạc Liêu, người ta vừa gắn biển tên đường mới: Nguyễn Ngọc Sanh. Tôi dừng lại nhìn hồi lâu và ngờ ngợ như mình đã rất quen thuộc với họ và tên của người được ghi trên tấm biển đường này... Và, tôi thực sự bồi hồi xúc động nhớ đến “anh Sáu Sanh - Nguyễn Ngọc Sanh” mà tôi đã cùng sống và làm việc với anh vào năm cuối cùng thời chống Pháp. Sau đó, tôi dò hỏi thì được biết, đó đúng là anh Nguyễn Ngọc Sanh. Thời chống Mỹ, anh lấy bí danh Mười Thiện. Hoá ra, người ta viết không đúng chữ lót giữa họ và tên của anh... Kỷ niệm những ngày được sống với anh hơn 20 năm trước lại hiện về mồn một trong tôi.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã bước vào năm cuối cùng, quân và dân ta trên khắp các chiến trường dồn sức tấn công địch để giành thắng lợi quyết định. Ðơn vị địa phương quân huyện Trần Văn Thời gồm những cán bộ, chiến sĩ cũ và mới tập hợp lại với đầy đủ biên chế tổ chức và trang bị.

Lúc ấy đơn vị chúng tôi đang đóng quân trong nhà dân ở Ngã ba Rạch Cui, xã Khánh Bình. Vào một buổi sáng sớm, đơn vị đang tập thể dục trên sân rộng trước nhà chú Ba Y và là nơi ở của tiểu đội Văn phòng Trung đội, thì có chiếc xuồng ba lá cập vào bến và một người có dáng dong dỏng cao, lưng hơi khom, vai mang túi dết bước lên bờ. Trung đội phó Trần Tâm Xuân nhìn xuống và nói như kêu lên: “Anh đến sớm hà?”. Người ấy cũng nhìn lên và trả lời: “Ừ, anh em mạnh hết hả?”. Trung đội phó Xuân quay lại phía trung đội hô: “Tất cả, nghiêm!”, rồi anh nói: “Xin giới thiệu với các đồng chí, đây là anh Sáu Sanh, Huyện uỷ viên, Chính trị viên phó Huyện đội, được huyện cử qua làm chính trị viên trung đội mình”. Anh Sáu nhìn cả đơn vị và chỉ nói: “Thôi, các đồng chí tiếp tục tập đi, anh em mình rồi sẽ nói chuyện sau!”. Rồi với dáng đi hơi khom và xốc tới, anh bước thẳng vào trong nhà.

Vì là lính văn phòng nên tôi được dịp sống và làm việc gần gũi với anh Sáu Sanh suốt thời gian anh về ở với trung đội cho đến khi tôi được cùng đơn vị lên đường tập kết ra miền Bắc theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Ðông Dương. Quê anh ở Rạch Lùm, xã Khánh Hưng, gốc nông dân “chánh hiệu”.

Nghe đồn những ngày được về nhà giúp việc gia đình, hai vợ chồng anh vừa phát vừa cào cỏ một ngày đến mấy công đất ruộng. Chuyện không rõ thực hư thế nào, nhưng người ta tin, vì trông tướng anh vạm vỡ và cần cù. Anh sống rất giản dị và gần gũi, với anh có thể nói là có phần hơi xuề xoà. Trong khi tất cả chúng tôi đều mặc quần áo lúc ấy gọi là “đồ lục quân”, quần tây, áo sơ mi dài tay, hai túi trên có nắp, cho áo vào trong quần rất chi là “chính quy”, thì riêng anh lúc nào cũng mặc bộ quần áo bà ba khá rộng. Anh cũng chỉ có hai bộ “nghiêm - nghỉ” - một bộ bằng vải hột dền màu đen, một bộ vải tám, nhuộm pin đèn màu xám tro. Khi đi tắm, anh làm rất nhanh mà anh thường gọi vui là “tắm cạn”...

Anh luôn luôn hoà mình, có khi dễ dãi với chiến sĩ. Ðám chiến sĩ trẻ mười tám, đôi mươi chúng tôi thường hay ngủ quên, đùa giỡn không giờ giấc, đồ đạc để bừa bộn, thiếu ngăn nắp... nhưng bao giờ anh cũng ôn tồn nhắc nhở, bảo ban như người anh lớn đối với đàn em trong gia đình. Tuy vậy, trong công việc anh rất cẩn thận, nghiêm túc và dứt khoát, có khi rất nghiêm khắc như là một người khó tính, đặc biệt đối với những sai phạm về kỷ luật dân vận.

Tôi nhớ có một lần chiến sĩ trinh sát Trần Quang Minh trong khi đùa nắm tay qua lại có vẻ thiếu đứng đắn với cô gái trong nhà đơn vị đóng quân, bà mẹ cô nhìn thấy và tỏ ý không bằng lòng. Sau đó anh Sáu gọi Minh lại phê bình gay gắt và giao cho Tiểu đội trưởng Văn phòng đưa Minh đến xin lỗi bà mẹ và gia đình. Mọi người đều nể phục phong cách sống và làm việc của anh.

Ðơn vị chúng tôi thường hành quân trên sông bằng xuồng chèo ba lá, mỗi xuồng đi một tổ 3 người - gọi là tổ “tam tam”. Khi hành quân có anh Sáu Sanh thì bao giờ anh cũng ra lệnh phải nguỵ trang cẩn thận cả người, đồ trang bị và xuồng; rồi phải chèo cách xa nhau mấy chục thước vì máy bay giặc Pháp thường bắn phá xuồng ghe đi dọc theo sông, bất kể dân thường, bộ đội hay cơ quan. Lúc nào anh cũng căn dặn: “Phải luôn luôn cảnh giác. Cẩn thận bao giờ vẫn hơn. Cái chính là thực chất, chớ không nên phô trương”. Ngược lại với anh Sáu, Trung đội phó Nguyễn Hoàng làm gì cũng phải cho ra vẻ “chính quy” - từ ăn mặc, tập hợp đơn vị sinh hoạt, huấn luyện đến hành quân... Anh Hoàng là người Nghệ An tốt nghiệp Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn ở ngoài Việt Bắc, được điều động vào miền Nam rồi về đơn vị chúng tôi. Lúc anh Sáu Sanh đi họp vắng, khi cần phải hành quân do anh Hoàng chỉ huy thì rất thoải mái. Chẳng những không phải nguỵ trang thứ gì mà cả xuồng lại được chèo gần nhau, còn giương cả cờ của các tiểu đội và hát hò nữa, thật là “oai”. Ðám lính trẻ chúng tôi vô cùng thích chí!

Một lần hành quân như vậy - dĩ nhiên là không có mặt anh Sáu Sanh, đoàn xuồng của cả Trung đội đang lướt nhanh trong ánh hoàng hôn từ vàm Rạch Ráng xuôi về phía cửa sông Ông Ðốc, thì mấy chiếc máy bay “còng cọc” (Spitfice) từ phía biển bay thẳng vào và bổ nhào xuống.... Cả đoàn xuồng như những chiếc lá chao đảo, lập tức tản nhanh vào các vòm lá dừa nước. Lúc bấy giờ dừa nước còn dày đặc ven sông.

Xuồng của đoàn chúng tôi chiếc chìm, chiếc lật, ai cũng ngụp lặn ướt loi ngoi, nhưng rất may là chẳng một ai có việc gì; đồ đạc, trang bị không bị trôi mất. Vì trời gần tối, hơn nữa mấy chiếc “còng cọc” này có thể nó đi bắn phá ở đâu đó về “tiện đường tạt qua” thôi. Chúng tôi, nhất là Trung đội phó Nguyễn Hoàng được một trận hú vía, lại càng thấm thía về bài học cảnh giác và cẩn thận của anh Sáu Sanh.

Như trên đã nói, tính tình anh Sáu rất hiền dịu, nhưng rất nghiêm túc trong công việc. Một hôm trong giờ rảnh, tôi đang đánh cờ tướng với chiến sĩ liên lạc Trần Hoà Bình thì anh gọi lại giao cho tôi viết bản báo cáo về công tác giúp dân của đơn vị để gửi về huyện. Tôi mới chơi cờ tướng nên rất là mê. Hễ có lúc nào rảnh rỗi là rủ nhau đánh cờ, hoặc thấy sòng cờ là xáp vô, có khi xâm phạm cả giờ giấc. Chuyện này anh Sáu cũng đã nhắc nhở đám lính trẻ chúng tôi mấy lần rồi. Anh thường bảo: “Nếu có thời giờ rỗi thì nên tìm sách, báo đọc cho đầu óc mở mang thêm. Chơi cờ cũng bổ ích, nhưng chơi bất kể ngày đêm là có hại”. Ðang tiếc nuối ván cờ nên tôi vẫn còn chần chờ chưa muốn rời đi, anh lại phải nhắc vì ở huyện giục gởi báo cáo qua sớm để tổng hợp.

Tôi đến bàn ngồi viết, và với số liệu công tác của đơn vị đã được ghi chép, nên không quá một giờ đồng hồ, tôi dự thảo xong bản báo cáo và đưa đến anh xem lại để ký. Mới nhìn lướt qua mấy trang giấy viết tôi vừa đưa, sắc mặt anh vốn tái xanh lại càng xanh tái thêm. Anh đặt bản báo cáo xuống mặt bàn và dằn mạnh tay lên, rồi nói như xiết từng tiếng một: “Chú viết vừa ẩu, vừa lộn xộn, đọc chẳng biết gì hết. Viết lại!”. So với các anh em trẻ trong đơn vị, tôi là người khá chữ hơn chút ít nên được điều động về làm thư ký văn phòng trung đội. Vì quá mê chơi cờ tướng nên tôi cố viết quấy quá cho xong và cũng không thiết xem lại để mau ra với cuộc cờ. Quả tình, khi cầm lại bản báo cáo, tôi phải lần dò hồi lâu mới hiểu hết được những gì do chính mình viết ra. Bấy giờ, anh Sáu Sanh mới ôn tồn nói với tôi: “Ở đời làm việc gì cũng cần phải cẩn thận và bao giờ cũng nên tính đến kết quả của nó. Nếu việc lớn mà cẩu thả thì sẽ rất nguy hiểm, có khi phải đổi bằng xương máu”. Chuyện chỉ có vậy và lời nói của anh chỉ giản đơn, mộc mạc, nhưng đã theo đuổi tôi qua suốt năm tháng hành trình của mình.

Ðến khi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Ðông Dương, anh Sáu Sanh được phân công hoạt động ở lại miền Nam, tôi được cùng nhiều anh em trong đơn vị tập kết ra miền Bắc. Khi chia tay chúng tôi, anh thân tình dặn dò rất ít lời, nhưng lại rất quan thiết đối với người ra đi, trong đó anh lại nhắc câu: “Ở đời, làm việc gì cũng cần phải cẩn thận...”. Sau này, được đi nhiều và học tập hiểu biết rộng hơn, làm các công tác khác nhau, nhưng mỗi khi cầm bút viết hay đọc các văn bản, bao giờ tôi cũng bồi hồi nhớ lại kỷ niệm tuy nhỏ, nhưng không thể nào quên giữa tôi và anh Sáu - Nguyễn Ngọc Sanh.

Anh Nguyễn Ngọc Sanh - Mười Thiện từ một nông dân bình dị, cần cù, chất phác ở một làng quê xa xôi miền cực Nam của Tổ quốc, được Ðảng giác ngộ đã trở thành một người cộng sản kiên cường, một cán bộ lãnh đạo có bản lĩnh và kinh nghiệm dạn dày - từ Chủ tịch xã lên huyện, ở tỉnh rồi là Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau (1962-1966) và là Khu uỷ viên, phụ trách An ninh khu Tây Nam Bộ (1966-1969). Ðó là những năm tháng ác liệt trong cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất của Nhân dân ta, và đó cũng là những tháng năm đẹp đẽ nhất của cuộc đời anh. Anh đột ngột ra đi vĩnh viễn giữa tuổi 46 - tuổi đang độ chín của đời một con người.Thời gian tôi được sống và cùng làm việc với anh Sáu Sanh không dài, kỷ niệm đối với anh không nhiều, nhưng đức tính, tư chất và phong cách của anh sống mãi trong tôi./.

 

Nguyễn Thu

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.