Thứ sáu, 19-9-25 02:15:09
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Mãi vang vọng một thời hoa lửa

Báo Cà Mau Nếu bộ đội Phòng không Không quân đánh thắng “giặc trời” bằng sức mạnh tiêm kích của pháo phòng không, bộ đội Bộ binh tiêu diệt địch trên địa hình rừng núi, thì có một đội quân chuyên biệt tiêu diệt địch ở chiến trường sông, biển. Đó là cán bộ chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam - những người được mệnh danh là “rái cá” trên mọi vùng biển đảo của Tổ quốc.

Nếu bộ đội Phòng không Không quân đánh thắng “giặc trời” bằng sức mạnh tiêm kích của pháo phòng không, bộ đội Bộ binh tiêu diệt địch trên địa hình rừng núi, thì có một đội quân chuyên biệt tiêu diệt địch ở chiến trường sông, biển. Đó là cán bộ chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam - những người được mệnh danh là “rái cá” trên mọi vùng biển đảo của Tổ quốc.

Đặcc công nước diệt giặc trời

Chúng tôi tìm gặp 2 “rái cá” đã giành suốt thời gian tuổi trẻ của mình cho những năm tháng ác liệt nhất của cuộc chiến đấu, đánh đuổi tàu Maddox và máy bay Mỹ xâm phạm lãnh hải, vùng trời Việt Nam vào đầu năm 1964. Ông là Phó Ðô đốc Ðỗ Xuân Công, nguyên Tư lệnh Hải quân và Anh hùng LLVT Nhân dân, Ðại tá Hoàng Kim Nông.

Phó Đô đốc, nguyên Tư lệnh Hải quân Đỗ Xuân Công chiến đấu trên con tàu 161 trong trận chiến đấu ngày 5/8/1964. (Tác giả chụp lại từ ảnh tư liệu).

Chúng tôi đến nhà Phó Ðô đốc, nguyên Tư lệnh Hải quân Ðỗ Xuân Công, trên đường Mê Linh, phường 22, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Vị tư lệnh vẫn tác phong nhanh nhẹn như thời quân ngũ. “Trận chiến đấu thì nhiều lắm, nhưng lịch sử hải quân có 2 trận oanh liệt nhất là chiến thắng trận đầu ngày 2 và 5/8/1964 và giải phóng Trường Sa năm 1975”, vị tư lệnh khẳng định như vậy khi tôi hỏi trận đánh tiêu biểu của Hải quân Việt Nam trong lịch sử.

Hớp ngụm trà nóng, ông Công bắt đầu câu chuyện bằng ánh mắt tự hào: “Trận chiến ngày ấy đã 51 năm rồi nhưng vẫn in đậm trong ký ức tôi. Ngày ấy nói đi đánh giặc là hăng hái lắm, nhất là vừa lái tàu, vừa bắn máy bay thì có kiêu hãnh nào hơn”.

Ông Công kể lại, sau thành lập được 9 năm, lúc đó Quân chủng Hải quân còn non trẻ. Lực lượng chưa đầy đủ, vũ khí trang bị còn thô sơ. Cục diện chiến trường lúc đó vô cùng cam go, ác liệt; nhất là sau cuộc đảo chính Ngô Ðình Diệm ngày 1/11/1963, vấn đề Việt Nam ngày càng trở nên nóng bỏng đối với giới cầm quyền Mỹ. Chúng vạch ra kế hoạch mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam, leo thang ra miền Bắc hòng ném bom Thủ đô Hà Nội. Bằng những kế hoạch nham hiểm như tăng cường do thám bằng máy bay chiến lược U2, thả biệt kích trà trộn vào các làng mạc, bắt cóc người dân miền Bắc để khai thác tin tức tình báo, sử dụng các đội nhảy dù phá hoại và tổ chức các cuộc tiến công của biệt kích từ hướng biển.

Ðặc biệt, ngày 2/8/1964, Mỹ đã dùng tàu khu trục Maddox tuần tiễu ven biển miền Bắc để làm hậu thuẫn cho hải quân nguỵ đánh phá các đảo và vùng dân cư ven biển các tỉnh Khu 4 cũ. Trước tình hình ấy, Bộ Tư lệnh Hải quân đã quyết định thành lập Sở Chỉ huy tiền phương ở sông Gianh, Quảng Bình. Ðây là nơi cung cấp lực lượng chiến đấu và lương thực thực phẩm cho chiến dịch. “Lúc đó tôi là tiểu đội trưởng hàng hải trên tàu 161. Ngày 5/8/1964, tàu chúng tôi đang trực tại Cảng Sông Gianh thì nhận được mệnh lệnh tiếp nhận đạn dược và sẵn sàng rời bến. Bằng linh cảm người lính, tôi biết chiến sự sắp xảy ra. Tôi vội vác quả bom chìm từ kho đặt vào giá cố định. Ðúng lúc đó thì tàu kéo còi báo động, lệnh tàu rời bến khẩn cấp. Tôi vọt lên đài chỉ huy lái tàu theo lệnh thuyền trưởng”, ông Công nhớ lại.

Ðúng như dự đoán của sở chỉ huy, khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, hàng loạt máy bay Mỹ chia thành nhiều tốp ném bom xuống sông Gianh hòng “diệt tận gốc, móc tận rễ bọn rái cá”. Nhưng với tinh thần chiến đấu anh dũng, gan dạ, kiên cường, các chiến sĩ trên tàu 161 đã quyết tâm diệt giặc trời. “Khi nghe tiếng máy bay gầm rú, chúng tôi ra vị trí chiến đấu. Lúc đó chẳng ai sợ bom đạn. Cứ có tiếng máy bay là lên mâm pháo, có lệnh là xách súng lao ra tìm địa vật nhằm máy bay địch, bắn. Trận chiến đấu ấy ta bắn cháy 2 máy bay, nhiều đồng đội đã hy sinh”.

Ông Công mắt rưng rưng nhìn ra khoảng trống trước nhà, rồi nhìn lên tấm ảnh thời khoác áo chiến sĩ: “Tấm ảnh này lúc đó tôi mang quân hàm hạ sĩ lái tàu 161. Ðó là những ngày đẹp đẽ nhất của đời lính biển. Chỉ tiếc rằng, ngày ấy không được chiến đấu nhiều hơn nữa. Thời hoa lửa qua rồi, nhưng khí thế chiến đấu thì vẫn nguyên vẹn như mới hôm qua”, giọng ông Công tự hào kiêu hãnh.

 Đời trai bất tử trên sóng nước

Ngay kế nhà ông Công là nhà Ðại tá Hoàng Kim Nông - người anh hùng đặc công tiêu biểu “diệt giặc trời” trên vùng biển Lạch Trường, Thanh Hoá. Trở về cuộc sống đời thường, hành trang của vị anh hùng là cái la bàn từ dẫn và đau đáu tình yêu thương dành cho đồng đội. “Anh hỏi về trận chiến trên con tàu 187 làm tôi sống lại một thời trai trẻ trên sóng nước”, vị đại tá ngẩng cao đầu nói như vậy khi tôi hỏi về chuyện ông cùng đồng đội chiến đấu trên con tàu 187 bị Mỹ bắn phá bao lần bom đạn năm 1964. Ký ức một thời máu lửa của vị anh hùng tràn về bằng những lời kiêu hãnh: “Lúc đó mình là chiến sĩ hàng hải của tàu. Nhưng khi chiến đấu thì sẵn sàng tiếp đạn cho pháo thủ chiến đấu hăng hái lắm. Luôn sẵn sàng hy sinh”.

Gần 60 năm qua, bà Sen, vợ Ðại tá Hoàng Kim Nông, luôn tự hào về chồng là người anh hùng dũng cảm. Mỗi lần có nhà báo đến hỏi chuyện chồng, bà Sen lại xúc động rơi nước mắt. Từ lâu, bà có ý thức lưu giữ những kỷ vật đã gắn bó với ông suốt thời trai trẻ cầm súng chiến đấu. Cầm trên tay cuốn album, bà Sen tự hào: “Thời trai trẻ của ông nhà tôi tất cả lưu giữ ở đây. Chúng tôi đều cất rất cẩn thận coi như vật quý. Con cháu đều tự hào về ông ấy”.

 Lần từng tấm ảnh như tìm về ký ức. Ông Nông dừng lại tấm ảnh có hình con tàu 187, phân trần: “Bằng chứng còn đây, đó là những tháng ngày đẹp nhất. Ngày 5/8/1964, tàu 187 chúng tôi đang thực hiện nhiệm vụ tại Hòn Ngư, Nghệ An. Thuyền trưởng lúc đó là anh Lê Xuân Tiếu. Lúc 12 giờ 20 phút, chúng tôi đang nghỉ trưa thì bỗng nghe tiếng kẻng liên thanh báo động. Lệnh anh Tiếu từ đài chỉ huy hô to: “Toàn tàu báo động chiến đấu.

Các vị trí khẩn trương triển khai đội hình!”. Tôi nghe xung quanh tiếng bom địch dội ầm ầm. Trên bầu trời lúc đó xuất hiện tốp máy bay địch bổ nhào ném bom. Tình huống quá bất ngờ và nguy hiểm. Nhanh như cắt, chúng tôi nổ súng ngay. Nhiều chiến sĩ quyết tâm giữ vững trận địa, không rời vị trí chiến đấu dù bị thương nặng ngay trên tàu”.

Ðại tá Nông dừng lại giây lát để kiềm xúc động. “Lúc đó bom Mỹ dội xuống dầy mặt biển Hòn Ngư, vậy mà anh Tiếu vẫn điều khiển con tàu vững chắc và cùng anh em chiến đấu. Anh ấy bị thương, máu chảy đầm đìa, tay phải gần như rời thân người. Ðể lái tàu, anh ấy đã dùng băng treo tay phải lên trước ngực, tay trái cầm điều khiển tàu luồn lách, tránh bom địch. Binh nhì Nguyễn Văn Vinh chưa đầy 1 tuổi quân, đã băng mình dưới làn lửa đạn của địch để cấp cứu thương binh, tiếp đạn cho đồng đội, tàu bị trúng đạn, Nguyễn Văn Vinh đã khẳng khái nói với thuyền trưởng: "Tàu còn thì tôi còn, thuyền trưởng cho tôi ở lại chiến đấu đến cùng". Câu nói của Vinh đã thể hiện tinh thần tất cả vì con tàu thân yêu”.

Tiễn đồng đội dưới bom đạn quân thù

  Phút giây xúc động chen lẫn niềm kiêu hãnh khiến Ðại tá Nông nghẹn lại. Ông nhấp thêm ngụm trà nóng rồi bảo: “Mỗi lần nhắc về đồng đội cũ lại thấy thương nhớ quá. Hơn nửa thế kỷ rồi, những ký ức ngày ấy vẫn vẹn nguyên, chưa hề phai nhạt”.

Ðoạn, ông kể tiếp. Khi ấy ông làm nhiệm vụ tiếp đạn cho vị trí pháo số 3 phía trước. Trước những đợt bom, pháo đầu tiên của địch, thuyền trưởng Lê Xuân Tiếu vừa cho tàu chạy linh hoạt tránh bom, vừa hô hào anh em giữ vững vị trí. Nhưng sang đến đợt thứ 2, đài chỉ huy tàu bị 1 quả tên lửa của địch bắn trúng. Rồi quả tên lửa nữa nhè đúng khoang máy của tàu 187 bắn. Ðường ống dầu bục ra, bén lửa cháy bùng bùng.

Thượng sĩ Cao Viết Thao, cơ điện trưởng, vội ôm bình cứu hoả nhảy xuống. Toàn thân Thao như bó đuốc xông vào bịt được lỗ thủng ống dầu cứu nguy cho cả con tàu. “Trận chiến mỗi lúc một ác liệt. Anh Ðoàn Bá Ký lúc đó giữ chức Chính trị viên tàu 187 chạy đi chạy lại như con thoi động viên anh em. Anh vỗ vai tôi: “Cậu lính trẻ mới tuổi 19, bình tĩnh nhé!”. Anh vừa dứt lời, tôi như nghe tiếng đổ ịch đằng sau. Anh trúng đạn mất rồi. Mắt anh vẫn mở nhưng nước mắt đã trào ra. Môi anh mấp máy như muốn nói điều gì. Tôi ghé sát tai anh mà không sao nghe được. Tôi tin, anh đang nhắc anh em hãy cố gắng giữ tàu”, ông bùi ngùi.

Ðại tá Nông nhìn ra khoảng sân trước nhà và tiếp tục câu chuyện: “Sau đó, chợt 1 tiếng nổ chớp loè. Cả đội hình pháo chúng tôi bị hất văng. Bằng, Thuận hy sinh. Hy, Bê bị thương nặng, còn tôi bất tỉnh. Khi tôi tỉnh dậy đã thấy mình nằm gọn trong gầm bệ pháo, toàn thân đầy máu, quần áo rách tươm. Chiến sĩ ra-đa Nguyễn Thanh Hải hỏi tôi: “Mầy có việc gì không?”. Tình huống cực kỳ bi thương. Phía bên kia mạn tàu, chiến sĩ Thiệp 1 tay ôm trán giàn giụa máu, 1 tay liên tục siết cò, cả người tì vào bệ pháo. Băng vết thương cho Thiệp xong, tôi lên buồng lái ôm vô lăng điều khiển tàu thay cho chiến sĩ Cẩn cũng vừa bị thương đổ gục. Lúc này chiến sĩ ra-đa Nguyễn Thanh Hải bị trúng bom nằm gần bệ pháo. Chúng tôi đỡ anh lên, chỉ còn nghe được tiếng thều thào: “Dựng tôi dậy cho tôi nhìn Tổ quốc lần cuối” rồi nhắm mắt ra đi. Một chiến sĩ trẻ đã đỡ anh nằm thẳng lại. Chúng tôi đứng lặng nhìn anh nằm trên bệ pháo. Cuộc tiễn đưa dưới bom đạn quân thù”.

Giọng Ðại tá Nông nghẹn lại, chùng xuống. 51 năm trước, ông khóc để tiễn đưa đồng đội trên tàu. Và hôm nay, sau 51 năm, giọt nước mắt của người anh hùng đặc công nước thêm lần nữa khóc thương cho những đồng đội thân yêu. Giọt nước mắt xen lẫn nỗi đau và niềm kiêu hãnh./.

Mai Thắng

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.