Thứ năm, 18-9-25 22:40:07
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Một lòng theo Ðảng

Báo Cà Mau (CMO) Vừa qua, được cơ quan phân công, tôi có chuyến theo đoàn cán bộ do đồng chí Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh, làm trưởng đoàn, đưa tin đoàn đến trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đảng viên cao niên Vũ Khắc Trung (Tư Trung) đợt 19/5. Một buổi lễ trang trọng, đầy cảm xúc và ý nghĩa. Ai nấy lặng mình nghe ông Tư Trung kể về cuộc đời binh nghiệp đầy máu lửa. Ông tham gia kháng Pháp, chống Mỹ và có mặt trong đoàn quân làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia. Còn vợ ông, bà Nguyễn Thị Dư cũng đã 63 năm tuổi Đảng, dâng hết tuổi xuân cho ngày giải phóng.

Suốt buổi, dù lúc trò chuyện hay khi phát biểu, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ đều trân trọng gọi bằng “Chú Tư kính mến” và khẳng định: “Những đồng chí cao niên tuổi Đảng trưởng thành trong chiến đấu như chú Tư, thím Tư là vốn quý của Đảng bộ, của xã hội, là tấm gương sáng để cán bộ, đảng viên và Nhân dân noi theo”.

Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Tiến Hải ân cần thăm hỏi sức khoẻ đồng chí đảng viên cao niên Vũ Khắc Trung.

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”

Lịch sử đã chọn và thử thách tấm lòng son sắt, kiên trung của ông Võ Thành Ngoạt (tên khai sinh của ông Tư Trung). Ông sinh ra trong gia đình nghèo ở Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh ngày nay, mồ côi cha mẹ từ năm lên 4, tuổi nhỏ phải đi làm thuê phụ giúp ông bà nội trong cuộc mưu sinh. Mang thân phận của người dân mất nước, chứng kiến bao cảnh đồng bào bị giặc đàn áp, bóc lột, trong ông sục sôi ý chí giết giặc. Khi cách mạng tháng 8/1945 diễn ra, lúc đó ông 17 tuổi đã đầu quân vào Vệ quốc đoàn, trở thành chiến sĩ Đại đội 1, Chi đội 14 (Khu 8).

Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông Tư Trung gắn liền với các đơn vị của Quân khu 8, từ khi là chiến sĩ cho đến ngày về hưu năm 1987 được phong cấp hàm trung tá. Cái tên Tư Trung đã từng là nỗi khiếp sợ đối với quân thù từ chiến trường miền Bắc đến miền Nam, bởi sự mưu trí, dũng lược. Điều đó được thể hiện qua nhiều trận đánh, ông Tư Trung được chỉ huy tin tưởng giao nhiệm vụ bố trí trận địa, vũ khí, nhân lực... Trong hoàn cảnh nào, cương vị nào ông vẫn giữ tròn khí tiết và niềm tin vào lý tưởng của Đảng.

Ông Tư Trung kể: “Tôi được kết nạp Đảng tại chiến trường sau 2 năm tham gia quân ngũ. Buổi lễ kết nạp tuy bài trí đơn sơ, không cầu kỳ, song vô cùng trang nghiêm bởi không khí thiêng liêng trong phút giây sinh tử của người lính trước giờ ra trận. Niềm vinh dự ấy trở thành nguồn sức mạnh vô hình, tôi mang theo vào từng trận đánh trên khắp mọi miền đất nước và những tháng ngày vượt dãy Trường Sơn”.

Khi đang học lớp Công trưởng ở Thái Nguyên, năm 1961, ông Tư Trung được giao nhiệm vụ mới, cùng đồng đội vượt Trường Sơn chi viện chiến trường miền Nam. Trong hồi ức, ông Tư Trung không thể quên suốt 3 tháng ròng vượt qua các dốc cao dựng đứng, có ngọn núi phải leo cả ngày mới tới đỉnh; hay lúc vượt suối, mọi người phải cho quần áo vào bao ni-lông buộc thành phao bơi, rồi bám dây lội qua. Ông Tư Trung kể: “Chúng tôi đi bộ men theo đường mòn, có lực lượng giao liên dẫn đường. Mỗi lần đến kho lương thực nhận gạo 7 ngày, để nấu cơm ở các điểm dừng chân. Hành quân đến trạm, nếu trời còn sáng thì dễ kiếm củi nấu cơm, còn đến tối thì rất khó khăn, nên anh em phân công nhau, trên đường hễ gặp cành cây khô thì bẻ đem theo phòng khi bất trắc”.

Những tháng ngày hành quân vượt Trường Sơn thật khốc liệt và khó có thể diễn tả hết. Tôi hiểu được điều đó phần nào từ ánh mắt buồn xa xăm và khoảng lặng của câu chuyện. Giọng ông bỗng trầm lại: “Ngày đi, đêm nghỉ, cơm vắt, ngủ rừng, lại trèo đèo lội suối, mang vác nặng nề đến 40 kg chứ chẳng vừa… Nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại trên đường hành quân bởi kiệt sức, bởi bom đạn và bệnh sốt rét”.

Còn đối với ông Tư Trung, đi bằng ý chí vì đồng bào miền Nam, chiến trường miền Nam đang chờ đợi…

Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Tiến Hải trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đảng viên Vũ Khắc Trung và chia vui cùng gia đình.

Vợ chồng đồng lòng chiến đấu

Bom đạn chiến trường tôi luyện nên một chiến sĩ cách mạng kiên trung và đã se duyên, vun đắp một mối tình bền chặt. Và cũng từ mối tình ấy đã tiếp thêm sức mạnh để họ cùng vượt qua biết bao hiểm nguy, gian khổ vẫn giữ trọn lời thề với Đảng, trách nhiệm với quê hương, đất nước.

Giai đoạn 1951-1954, ông Tư Trung là Trung đội phó, Trưởng quân lực Tiểu đoàn 307, hoạt động mạnh mẽ trên khắp chiến trường Nam Bộ. Những ngày đóng quân ở Tân Lộc (huyện Thới Bình), phối hợp với lực lượng địa phương làm nhiệm vụ, tại đây ông gặp gỡ và kết duyên chồng vợ với nữ giao liên Nguyễn Thị Dư, người con gái vóc dáng nhỏ nhắn nhưng lại có tinh thần dũng cảm, gan dạ.

Ngày cưới diễn ra đơn sơ, nhanh chóng để đồng đội cùng chứng kiến, chia vui. Ông Tư Trung nhớ lại: “Cưới vợ được vài ngày thì đơn vị chuyển địa điểm đóng quân, để chuẩn bị tiếp quản thị trấn Cà Mau. Trước khi lên đường, tôi nói với bà ấy, mình phải tạm gác chuyện tình cảm riêng tư để tập trung chiến đấu. Dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng”.

Ngày ông Tư Trung tập kết ra Bắc (năm 1955), cũng là năm bà Dư sinh người con đầu lòng. Đến khi đứa bé lên 10 tuổi, ông Tư Trung làm nhiệm vụ ở chiến trường miền Nam, mới được biết mặt con. Bà Dư hồi nhớ: “Vợ chồng tôi có 3 mặt con, mỗi đứa ra đời đều để lại một kỷ niệm khó quên. Đứa lớn thì sinh vào năm tập kết, đứa con gái kế sinh năm 1964 - vợ chồng gặp nhau sau 10 năm ngày cưới, con trai út sinh vào năm giải phóng 1975”. 

Vừa nuôi con vừa làm nhiệm vụ, đằng đẵng lo âu chồng chiến đấu phương xa, nhưng bà Dư vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng, làm trưởng cán sự phụ nữ xã, rồi công tác binh vận, uỷ viên an ninh xã và dạy các con lòng căm thù giặc… Có lần khi vận động bà con tham gia mít tinh lên án tội ác của đồn giặc đóng ở Cầu số 3, bà Dư bị giặc bắt, tra tấn nhiều ngày liền, nhưng bà vẫn một mực không khai báo.

Trong cuộc trò chuyện với các con của ông bà, ai nấy đều tự hào về quá khứ anh hùng của cha mẹ. Tấm gương mẫu mực, liêm khiết của cha mẹ đã hun đúc ý chí, nghị lực để con cái vươn lên. Chị Võ Thị Lệ Hằng, người con thứ 3, kể lại: “Nhớ lúc mẹ tôi bị địch bắt, tôi mới 8 tuổi, thương mẹ vất vả việc nước lại bị hành hạ đòn roi, tôi ở nhà cùng chị Hai đi cắt lá gói bánh, nấu xôi, mang nước cho bộ đội trú ẩn trong xóm, để mấy chú có sức khoẻ đánh giặc cứu mẹ. Chị tôi gan lắm, bị giặc chặn đường mấy lần mà vẫn bình tĩnh, lanh lẹ”. 

Ngày giải phóng, niềm vui sum họp gia đình chưa lâu, ông Tư Trung tiếp tục nhận nhiệm vụ mới, giúp sức chiến đấu ở chiến trường Campuchia. Còn bà Dư được phân công làm Bí thư Chi bộ Ấp 5, xã Tân Lộc, góp sức xây dựng quê hương đổi mới, một lòng một dạ chờ ngày đoàn tụ gia đình.

Cuộc đời của vợ chồng ông Tư Trung gắn liền với lịch sử thăng trầm của quê hương, đất nước. Nay tóc đã bạc, mắt đã mờ, song ở họ luôn hừng hực lửa khi nói về những năm tháng chiến đấu. Tinh thần ấy tiếp tục được phát huy trong xây dựng cuộc sống mới. Anh Lê Minh Thông, Bí thư Chi bộ ấp, cho biết: “Chi bộ có 26 đảng viên, trong có 9 đảng viên cao niên. Chi bộ luôn xem họ là những bậc “cố vấn”, khi công việc gặp khó khăn là nhờ các cô, chú chỉ dạy. Lúc chú, thím Tư còn khoẻ, mỗi cuộc họp chi bộ đều có mặt, đóng góp nhiều ý kiến hay. Tinh thần, trách nhiệm của chú Tư, thím Tư là tấm gương sáng để thế hệ đảng viên chúng tôi học tập, noi theo”./.

 

Mộng Thường

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.