Thứ sáu, 19-9-25 00:34:50
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhớ những ngày chiến dịch

Báo Cà Mau (CMO) Những trang nhật ký chiến trường, cách đây hơn 40 năm vẫn còn nguyên trong khí thế hào hùng của quân dân Cà Mau năm xưa. Tháng 2/1972, tôi nhận quyết định từ Ban Chính trị Tỉnh đội Cà Mau biệt phái sang Ban Tuyên huấn tỉnh.

Ông Trần Hữu Vịnh (Hai Thống), Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Tuyên huấn, nói: “Hưởng ứng toàn miền, vào chiến dịch lần này, quân ta đánh lớn… Ở chiến trường Cà Mau, ta phải giải phóng toàn bộ đồn bót của giặc trên tuyến Bình Hưng - Cái Đôi. Anh em đã xuống địa bàn cả rồi, đồng chí sắp xếp đi ngay ra các mũi tiến công, với nghiệp vụ của mình, cổ vũ phát huy tinh thần đồng bào đang nổi dậy ở vùng giặc đang chiếm đóng".

Lần này vào chiến dịch, một thân tôi trên chiếc xuồng ba lá nhỏ đến xã Trần Thới, huyện Cái Nước. Trên ngã ba sông, các lực lượng dân công hoả tuyến, du kích tập trung, bộ đội địa phương, hậu cần sôi động trong khí thế tiến công. Bằng phương tiện - vật liệu chuyên môn sẵn có và có sẵn một phác thảo tranh cổ động đã được thông qua Ban Tuyên huấn tỉnh, sau hơn một ngày đêm khẩn trương, tôi căng khung ra vẽ xong bức tranh cổ động 2 x 3,5 m, được anh em thông tin xã Trần Thới hỗ trợ, cắm cọc treo tranh bên ngã ba sông. Nội dung tranh thể hiện lớp lớp đoàn người đang gậy gộc trong tay xông lên phá ấp chiến lược: "Đạp nát rào gai cho chiến công nối tiếp”.

Thế rồi, chiến sự đã diễn ra trên khắp địa bàn huyện Cái Nước. Đồng bào trong các ấp chiến lược nổi dậy bao vây đồn bót giặc, đòi lũ quỷ Bình Hưng đền nợ máu! Hơn 7 ngày đêm, quân dân xã Trần Thới đào chiến hào bao vây đồn giặc, bộ đội ta đánh pháo liên tục vào đồn Bàu Chấu. Giặc đưa nhiều lượt máy bay quân sự, phi pháo, bom đạn trút xuống dữ dội để giải toả đồn Bàu Chấu. Bọn lính trong đồn lén bò ra đeo theo càng trực thăng thoát chết, có những tên lột bỏ quần áo lính chạy về chi khu Đồng Cùng. Dùng máy ảnh, tôi ghi nhanh đồn giặc đang ngập chìm trong khói pháo, kho đạn nổ tung, những hầm ngầm, công sự đồn bót giặc đổ nát. Tôi ký hoạ hàng trăm thanh niên nam nữ, những cụ già, tay vung cao cuốc, xẻng đào bới hang của lũ giết người.

Tù binh được giáo dục phóng thích tại chiến trường (ký hoạ của Nguyễn Hiệp 1972).

Đến Thứ Vải - Quảng Phú, nơi 14 năm qua bọn giặc chụp vào đây bộ máy nguỵ quyền và đồn bót, những ấp chiến lược và rào kẽm gai kềm kẹp hơn 8 ngàn dân. Giờ đây quân ta dồn sức tiến công, truy kích giặc đến sào huyệt cuối cùng. Tôi ghi được hình ảnh các chiến sĩ nữ địa phương quân súng chắc trong tay dẫn tù binh về hậu cứ; Chị Út Hiểm, vợ của Huyện đội trưởng Năm Mến, đội thúng cơm vượt qua làn đạn pháo của giặc đem ra cho bộ đội ngoài mặt trận; Những tên lính nguỵ vừa bị bắt sống với gương mặt thiểu não cũng được cho ăn. Trong cơn mưa chiều, đường làng trơn trượt, tôi chạy bộ hơn 5 km để ghi lại hình ảnh đồn Quảng Phú còn đang bốc cháy, tên đồn trưởng cháy queo như chuột bị đốt. Ghi hình ảnh hàng trăm đồng bào từ các phía vượt sông ra đào, cuốc phá đồn Kênh Mới, trong đó có những cụ già tóc bạc phơ. Trực thăng của giặc đổ quân xuống trận địa một đại đội lính phản kích cứu nguy cho đồng bọn, bị quân ta diệt gọn, thây nằm ngổn ngang trên đồng nước. Và trong đêm ấy, tôi ghi hình ảnh Nhân dân ta đốt đuốc, bơi xuồng trên sông Cái Bát đi phá đồn giặc, vẽ anh chiến sĩ thông tin cầm ống loa thông báo đồn Mang Rổ giặc vừa bỏ chạy…

Chiến công nối tiếp, chiều cuối đông năm 1972, tôi ghi hình đoàn xuồng bộ đội hành quân trên sông Bùng Binh (Cái Bát) ra tuyến lửa. Kết thúc chiến dịch lịch sử, quân dân ta đánh diệt gọn đồn Bà Hui. Tôi đến vẽ chân dung bác nông dân bao ngày sống trong ấp chiến lược bị kìm kẹp khắc nghiệt của kẻ thù, bác đứng lên xé nát cờ ba sọc và xé hình tên Nguyễn Văn Thiệu bán nước…

Nhân dân ấp chiến lược Bà Hui phá đồn giặc (ký hoạ của Nguyễn Hiệp 1972). 

Ra mặt trận, tôi vẽ các chiến sĩ Tiểu đoàn U Minh nằm chờ giặc; Vẽ bà mẹ tiếp vận tải lương; Vẽ chân dung anh Hai Xẻo, người chiến sĩ hậu cần 2 thời kỳ kháng chiến luôn có mặt ở quân hàng; Vẽ đôi mắt sáng của đồng chí Định, đồng chí Của, đồng chí Xe Tăng (tên anh) trong mũi nhọn mưu trí dũng cảm đánh chiếm đồn Quảng Phú ban ngày; Vẽ đồng chí Tùng gan dạ xông lên, phất cờ lệnh cho quân ta xung phong tiêu diệt đồn Cái Bát; Vẽ tư thế chị Bảy Thơm hiên ngang chĩa súng bắt sống 2 tù binh trong trận diệt đồn và vẽ chân dung má Ngô Thị Thính, chị Hai Đào - người mẹ, người chị đỡ đầu cho bộ đội địa phương quân huyện Cái Nước. Vẽ hình má Tám Lệ ở Lung Tra, người đảng viên cao niên tham gia suốt từ đầu vào chiến dịch làm tổ trưởng tiếp vận chiến trường... Bằng vật liệu thô sơ, tôi đã ghi chép về những con người trên vùng đất gắn với chiến công lịch sử. Hơn 200 ký hoạ chiến trường ghi chép đã trở thành những tác phẩm sống động của thời cuộc, được trưng bày ngay khi chiến trường vừa im tiếng súng. Triển lãm ký hoạ được cơ động bên chiến hào, bên công sự quân dân ta đang nằm chờ giặc cho các lực lượng dân công hoả tuyến, làm quà cổ vũ tất cả hăng hái bước vào trận đánh mới.

Quân giặc liên tiếp thất bại trên các chiến trường. Ở Cà Mau, chúng điên cuồng đưa quân đánh phá vào vùng nông thôn giải phóng, lấn chiếm đóng lại đồn bót. Từ mùa đông năm 1972, quân dân ta đồng loạt tiến công, phía Bắc Cà Mau và nhiều nơi trong tỉnh có bộ đội chủ lực Trung ương về chi viện. Riêng tuyến Bình Hưng - Cái Đôi - Đồng Cùng, các đơn vị địa phương kết hợp lực lượng quần chúng nổi dậy bao vây tiêu diệt, bức rút 14 đồn bót lớn như: Đồn vàm xáng Thọ Mai, đồn Bà Ký, đồn Vàm Đình, đồn Cả Đài, đồn Bà Hui và các đồn Thứ Vải, Quảng Phú, đồn Kênh Mới, đồn Cái Đôi, đồn Mang Rổ cùng trên 30 lô cốt - đồn bót nhỏ, trạm tiền tiêu của giặc trong khu vực bị quân ta quét sạch.  Ta diệt và bắt sống trên 500 tên, thu toàn bộ vũ khí, biệt khu Hải Yến - Bình Hưng bị đánh thiệt hại nặng.

Những con người trên vùng đất này đã làm nên chiến thắng lịch sử, năm tháng qua đi nhưng đất nước không thể nào quên. Tôi viết lại những dòng này để kỷ niệm 47 năm hưởng ứng với toàn miền, huyện Cái Nước vào chiến dịch “Đánh chắc và thắng chắc”, đánh tiêu diệt, dỡ mảng hệ thống đồn bót giặc trên địa bàn, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc./.

Nguyễn Hiệp

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.