Thứ sáu, 19-9-25 00:31:15
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Những con đường huyền thoại

Báo Cà Mau Đường mòn Hồ Chí Minh là sự tiếp nối hai con đường “Nam tiến” trước kia, được bắt đầu từ những năm 1940.

Đường mòn Hồ Chí Minh là sự tiếp nối hai con đường “Nam tiến” trước kia, được bắt đầu từ những năm 1940.

Con đường Nam tiến lần thứ nhất diễn ra trong những năm 1941-1945, có tên gọi là con đường quần chúng cách mạng, nối liền Khu Căn cứ Cao Bằng nói riêng, Căn cứ Việt Bắc nói chung xuống miền xuôi, xuống tận phía Nam. Con đường này phục vụ cho các đội xung phong tuyên truyền chuyển tải tư tưởng cách mạng, chủ trương của Nghị quyết VIII đến các địa phương để tổ chức các lực lượng vũ trang tại chỗ, tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Vận tải cơ giới của Quân đội Nhân dân Việt Nam trên đường Hồ Chí Minh trên đất liền.        Ảnh tư liệu

Con đường Nam tiến lần thứ hai diễn ra từ cuối năm 1945 đến cuối năm 1946, nhằm đưa các lực lượng vũ trang - chủ yếu là các chi đội giải phóng quân, các đại đội vệ quốc đoàn vào sát cánh chiến đấu cùng Nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ, giữ vững vùng tự do vừa giành được cho đến khi nổ ra kháng chiến toàn quốc.

Con đường Nam tiến lần thứ ba, đường Trường Sơn huyền thoại, có tầm vóc và quy mô lớn hơn rất nhiều. Ðoàn 559 (ra đời ngày 19/5/1959), còn gọi là Binh đoàn Trường Sơn, là đơn vị triển khai các lực lượng công binh, hậu cần, quân y, bộ binh và phòng không để bảo đảm hoạt động cho hệ thống đường này. Là một mạng lưới giao thông quân sự chiến lược, men theo hai bên sườn núi của dãy Trường Sơn, đường mòn Hồ Chí Minh bắt đầu từ Khe Hó (Vĩnh Hà, Vĩnh Linh, Quảng Trị) chạy suốt từ miền Bắc qua miền Trung, Hạ Lào và Campuchia. Hệ thống này đã cung cấp binh lực, lương thực, vũ khí, khí tài, chi viện cho quân giải phóng miền Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam suốt một thời gian dài trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Quân số cao nhất của binh đoàn có lúc tới 200.000. Nếu tính số lượt người tham gia chiến đấu ở Trường Sơn thì phải đến hơn 1 triệu. Chỉ tính riêng đường ô-tô (hệ thống ngang dọc trên dãy Trường Sơn) là 20.000 km, trong đó có 5 hệ thống đường trục dọc (theo chiều dài dãy Trường Sơn đến miền Ðông Nam Bộ), 21 hệ thống đường trục ngang. Trong 20.000 km đường đã có 3.140 km đường kín (nguỵ trang để ô-tô chạy ban ngày). Ðộ dài tuyến cơ giới đường sông (chủ yếu là các nhánh sông Xê Kông và Mê Kông) là 600 km. Số thiệt hại về người và cơ sở vật chất trên đường Trường Sơn cũng không phải là nhỏ. Gần 30.000 chiến sĩ hy sinh, hơn 100.000 chiến sĩ bị thương, số xe máy móc bị đánh hỏng là 14.500 chiếc, 90.000 tấn hàng hoá bị phá huỷ, trong đó có 703 khẩu súng, pháo.

Ðể ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, lực lượng quân sự Mỹ và nguỵ quân Sài Gòn đã ra sức đánh phá hệ thống giao thông này bằng nhiều chiến dịch bộ binh và không quân. Một hệ thống máy móc điện tử, thường gọi là “hàng rào điện tử McNamara” đã được sử dụng để hướng dẫn máy bay trút xuống 3 triệu tấn bom đạn. Ngoài ra, còn có chất độc da cam cùng một số loại chất độc hoá học diệt cỏ khác được Mỹ rải xuống nhiều vùng trên đường Trường Sơn hòng làm trụi lá cây. Các dự án tạo mưa và các chất độc hoá học tạo bùn cũng được sử dụng để phá đường. Nhưng tất cả mọi cố gắng của quân xâm lược đều không đem lại kết quả nào đáng kể.

Bên cạnh đường mòn Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, còn có đường Hồ Chí Minh trên biển. Ðó là tên gọi của tuyến đường vận tải bí mật trên biển Ðông, được thành lập ngày 23/10/1959 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (do Ðoàn 759 - Ðoàn tàu không số mở đường) để vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam. Chuyến đi đầu tiên được thực hiện vào đêm 30 Tết Canh Tý (ngày 27/1/1960). Theo thống kê chưa đầy đủ, trong thời gian chi viện cho chiến trường, đã có gần 2.000 lần tàu thuyền vượt trùng khơi cập 19 bến bãi, thuộc địa bàn 9 tỉnh miền Nam và đã vận chuyển được gần 160.000 tấn vũ khí, đạn dược, các loại khí tài, quân trang, quân dụng khác.

Theo tác giả Ðặng Phong viết trong cuốn sách Năm đường mòn Hồ Chí Minh" (Nhà Xuất bản Tri Thức Hà Nội, 2008) ngoài đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ, đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, còn có 3 con đường khác nữa tiếp tế cho chiến trường miền Nam mà rất ít người biết đến đó là: đường nhiên liệu, xăng dầu, đường hàng không và đường tài chính, chuyển ngân.

Ðường nhiên liệu, xăng dầu có tổng chiều dài tới 5.000 km, vận chuyển xăng dầu, suốt từ biên giới Việt - Trung và từ các cảng biển miền Bắc vào đến tận Nam Bộ; có chỗ phải vượt qua cả những điểm cao tới gần ngàn mét - điều có vẻ bất khả thi đối với kỹ thuật đường ống lúc bấy giờ. Người Mỹ dường như cũng biết rằng con đường này đã xuất hiện và từng đánh phá được một số điểm.

Ðường hàng không là con đường bí mật trong công khai, đi từ Phnôm Pênh (Campuchia), bay qua lãnh thổ miền Nam Việt Nam, thậm chí bay qua cả Sài Gòn tới Hồng Kông hoặc Quảng Châu (Trung Quốc) rồi về Hà Nội. Con đường này từng vận chuyển hàng ngàn lượt tướng tá “Việt cộng” vào Nam, ra Bắc, vận chuyển hàng triệu đô-la cho cơ quan kinh tài của Mặt trân Dân tộc giải phóng miền Nam; vận chuyển rất nhiều máy móc, thuốc men và hoá chất quan trọng; vận chuyển thương binh, vận chuyển vợ con các chiến sĩ và cán bộ của miền Nam ra Bắc học tập, điều dưỡng. Nhưng phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn hình như hoàn toàn chưa biết gì về tuyến đường này.

Ðường tài chính, chuyển ngân còn bí mật hơn. Ðó là con đường vô hình, không có đường, không có lối trên đất liền, trên biển cả, trên không trung, trên những đường ống… Nó đi theo hệ thống ngân hàng của chính các nước phương Tây và hệ thống ngân hàng ở ngay Sài Gòn để chuyển tiền một cách hợp pháp từ Bắc vào Nam, từ các nguồn tài trợ của các nước vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn rút ra tiền để chi tiêu cho các lực lượng giải phóng. Không cần ô-tô, không cần máy bay, không cần tàu thuỷ, không cần gùi thô, chỉ cần những mật mã, những cú điện… Con đường đó, suốt 20 năm chiến tranh, chỉ “ai làm thì người ấy biết”, Mỹ không biết, chính quyền Sài Gòn không biết nên không một ai bị bắt, không một vụ chuyển ngân nào bị phát hiện. Nhưng con đường  Hồ Chí Minh đó thật là thần kỳ và bí mật. Không riêng gì người Mỹ, không riêng gì người nước ngoài mà ngay cả người Việt Nam, thậm chí cả những chiến sĩ, cán bộ và người lãnh đạo cấp cao trong hệ thống các con đường Hồ Chí Minh kể trên cũng không biết hết được những gì ngoài phạm vi mình phụ trách. Sự “không biết” đó càng chứng tỏ rằng, ngoài những điều thần kỳ của ý chí, tài năng và phương pháp tổ chức, còn có một điều thần kỳ nữa là sự bí mật một cách tuyệt đối./.

Vũ Bạ tổng hợp

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.